Bắc thuộc

Từ Bắc thuộc chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình Trung Quốc, nghĩa là thuộc địa của Trung Quốc. Thông thường, người ta hay dùng từ Bắc thuộc để chỉ giai đoạn hơn một nghìn năm từ khi Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc của An Dương Vương (207 TCN) cho đến khi Ngô Quyền giành lại độc lập từ nhà Nam Hán (938); nghĩa là gộp ba lần Bắc thuộc thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Trong thời gian này Việt Nam (Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam) bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình của phương Bắc như: nhà Triệu, nhà Hán, nhà Đông Ngô, nhà Tấn, nhà Tề, nhà Lương, nhà Tùy, nhà Đường, nhà Nam Hán, và chỉ có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ Lý Bí với nước Vạn Xuân (541-602).

Có tài liệu chia thành bốn thời kỳ Bắc thuộc:

  1. Bắc thuộc lần thứ nhất (111 TCN – 39)

  2. Bắc thuộc lần thứ hai (43 – 541)

  3. Bắc thuộc lần thứ ba (602 – 905)

  4. Bắc thuộc lần thứ tư (1407 – 1427)

Một số tài liệu khác chia thành ba thời kì. Cách chia này gộp hai thời kỳ đầu (với gián đoạn là khởi nghĩa Hai Bà Trưng) thành thời kì Bắc thuộc lần thứ nhất. Bài này sử dụng cách chia làm bốn thời kì.

Trong suốt các thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc không ngừng thực hiện đồng hóa người Việt nhằm biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Quốc. Dưới thời kỳ này người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bòn vét thêm của dân.

Cũng có một số quan cai trị nghiêm minh, đứng đắn, nhưng số này có thể ít hơn. Nền văn minh Trung Quốc cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này.Sĩ Nhiếp, thái thú nhà Hán (187-226) được các nhà nho thời phong kiến coi là có công truyền bá chữ nho và đạo Khổng vào Việt Nam, được coi là người mở đầu nền nho học của giới quan lại phong kiến ở Việt Nam. Nhiều người Trung Quốc đã di cư đến Việt Nam, họ ở lại, dần dần kết hôn với người Việt và hòa nhập vào xã hội Việt Nam, và con cháu trở thành người Việt Nam.

***

Bắc thuộc lần thứ nhất

Năm 111 TCN, nhà Hán đã chiếm được Nam Việt và chia làm chín quận là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam có trị sở tại Long Biên. Riêng đối với quận Nhật Nam, khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu-Nam Việt, lãnh thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình Định). Quận Nhật Nam chỉ hình thành sau khi các quan cai trị Giao Chỉ người Hán tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn

Năm 39, thái thú Giao Chỉ là Tô Định tàn ác, giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Nợ nước thù nhà, Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa và đã giành được 65 thành ở Lĩnh Nam. Hai Bà lên ngôi vua, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất.

****

Bắc thuộc lần thứ hai

Năm 43, nhà Hán sai Phục ba tướng quân Mã Viện đem quân sang tái chiếm, Hai Bà Trưng chống không nổi phải rút về giữ Cấm Khê rồi tự vẫn ở sông Hát. Dân địa phương lập đền thờ ở Hát Giang.

Năm 248, có người con gái ở quận Cửu Chân là Triệu Thị Trinh họp dân chúng đánh đuổi các quan lại đô hộ ở các quận huyện, sau bị Lục Dận là thứ sử đàn áp phải chịu thất bại.

Thời kỳ Vạn Xuân

Năm 541, vì chính sự hà khắc của quan lại địa phương, Lý Bí, với sự giúp đỡ của Tinh Thiều, Phạm Tu và Triệu Túc,… nổi lên đánh đuổi quan quân, rồi xưng là Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.

Năm 545, nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem quân sang tái chiếm. Nam Đế đem ba vạn quân chống cự, thua trận phải rút lui về động Khuất Lạo. Ông sai tướng là Triệu Quang Phục cầm binh chống giữ. Quang Phục đem quân về đầm Dạ Trạch, dựa vào hình thế nhiều bụi rậm, lau lách ở đó để kháng chiến. Triệu Quang Phục là con Triệu Túc theo Nam Đế đánh dẹp được phong làm Tả tướng quân.

Năm 548, Nam Đế mất. Triệu Quang Phục bèn xưng làm Triệu Việt Vương.

Năm 550, nhà Lương có loạn phải triệu Trần Bá Tiên về. Bá Tiên giao quyền cho phó tướng Dương Sàn. Triệu Quang Phục ra đánh giết Dương Sàn, đóng đô ở thành Long Biên.

Anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo trước đó ở đất người Di Lạo, lập nước Dã Năng xưng làm Đào Lang Vương. Năm 555, Lý Thiên Bảo chết không có con nối dõi, tướng của ông là Lý Phật Tử nối ngôi.

Năm 557, Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương không thắng được. Hai bên chia đôi đất giảng hoà. Lý Phật Tử vào thành Ô Diên sai con là Nhã Lang sang xin cưới con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương. Triệu Việt Vương yêu con bèn cho Nhã Lang ở rể.

Năm 571, bị Lý Phật Tử đánh úp, Triệu Việt Vương thua trận chạy ra cửa biển Đại Nha tự vẫn. Lý Phật Tử xưng làm (hậu) Lý Nam Đế vẫn đóng đô ở Ô Diên sau đổi lên Phong Châu.

 

***

Bắc thuộc lần thứ ba

Thuộc Tùy – Đường

Năm 602, nhà Tùy cho quân sang xâm lược, Lý Phật Tử chưa đánh đã hàng, bị bắt về phương bắc rồi chết ở đó.

Năm Nhâm Tuất (722) tức năm Khai Nguyên thứ mười, đời Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, Mai Thúc Loan đã khởi nghĩa tại Hoan Châu, chọn Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn là căn cứ chính chống quân chiếm đóng nhà Đường.

Năm 791, Cao Chính Bình làm An Nam đô hộ phủ bắt dân đóng góp nặng nề, Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng vào thành chưa được bao lâu thì qua đời, con là Phùng An lên thay và tôn hiệu cha làm Bố Cái Đại Vương. Nhà Đường sai Triệu Xương sang dụ, Phùng An đem quân ra hàng.

Họ Khúc tự chủ

Năm 905, hào trưởng người Việt ở Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ chiếm giữ châu trị, xưng là tiết độ sứ, có ý khôi phục nền độc lập. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay tiếp tục làm Tiết độ sứ.

Năm 917, Khúc Hạo chết, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay.

Nam Hán chiếm đóng

Năm 923, vua Nam Hán sai Lý Khắc Chính đem quân sang đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ đem về nước, Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao Châu.

Năm 931, Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Thừa Mỹ đem quân đánh phủ thành Đại La, lại đánh tan quân Nam Hán do Trần Bảo dẫn sang cứu viện, giết Trần Bảo và tự xưng là Tiết độ sứ.

Dứt họa Nam Hán

Năm 937, bộ tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn giết ông để thay chức.

Năm 938, bộ tướng khác, đồng thời là con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền đem quân giết Kiều Công Tiễn, rồi đánh tan đạo quân xâm lược Nam Hán do Hoằng Tháo dẫn đầu sang tiếp ứng cho Công Tiễn, lập ra nhà Ngô, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc này.

Cách phân chia thời gian trên đây căn cứ vào sử sách vì các sử gia cho rằng: đến năm 939, khi Ngô Quyền chính thức xưng vương, Việt Nam (bấy giờ gọi là “Tĩnh Hải quân”) mới được coi là tách ra khỏi Trung Quốc. Trên thực tế, người Việt đã tự quản từ năm 905, sau đó chỉ bị Nam Hán chiếm đóng trong thời gian ngắn. Bắc thuộc lần thứ này trên thực tế chấm dứt năm 931 với chiến thắng của Dương Đình Nghệ.

Thời Bắc thuộc lần thứ 3 trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm nước Vạn Xuân, bức hàng Hậu Lý Nam Đế, kéo dài cho đến khi Khúc Thừa Dụ tiến vào Đại La, giành quyền cai quản toàn bộ Tĩnh Hải quân năm 905 – thời Đường Ai Đế, ông vua bù nhìn trong tay quyền thần Chu Ôn.

 

***

Các triều đại Trung Quốc cai trị Việt Nam

Năm 602, nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân 27 dinh sang đánh nước Vạn Xuân. Vua đời thứ 3 của Vạn Xuân là Lý Phật Tử sợ giặc và đầu hàng, bị bắt sang Trung Quốc. Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 mà trước hết là thuộc Tùy. Thời đó, Việt Nam bị xếp làm một châu của Tùy, gọi là châu Giao (交州). Trên đường đánh Lâm Ấp quay về, Lưu Phương mắc bệnh chết.

Sau Lưu Phương, đến Khâu Hòa được cử làm đại tổng quản. Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, lập ra nước Đại Đường. Khâu Hòa xin thần phục nhà Đường năm 622. Việt Nam thành thuộc địa của Đại Đường.

Thời gian Bắc thuộc lần 3 của Việt Nam kéo dài hơn 300 năm.

Hành chính

Năm 605, nhà Tùy đổi châu Giao thành quận Giao Chỉ, quận lỵ đặt tại huyện Giao Chỉ. Đồng thời, nhà Tùy đặt ra Phủ Đô hộ Giao Chỉ để cai trị Việt Nam. Chủ trương của nhà Tùy là thiết lập chế độ trung ương tập quyền, không phong cho tông thất và công thần, chỉ chuyên dùng quan lại cai trị.

Nhà Đường bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập ra, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ. Người đứng đầu cơ quan này gọi tổng quản.

Năm 679, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Bấy giờ, vùng Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao, châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản.

Sau đó, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ Giao Châu thành Phủ Đô hộ An Nam. Tên gọi An Nam trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ thời điểm này. Chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam lúc đầu gọi là kinh lược sứ, sau đổi thành Tiết độ sứ. Nhà Đường lại chia Giao Châu làm 12 châu; đứng đầu mỗi châu là viên quan thứ sử. 12 châu này lại được chia thành 59 huyện. Tên gọi 12 châu là:

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Thang
  • Trường
  • Chi
  • Võ Nga
  • Võ An
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn

Năm 624, Đường Cao Tổ lại đổi các Phủ Đô hộ thành Phủ Đô đốc. Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ Đô đốc An Nam. Năm 679, Đường Cao Tông lại đổi về tên cũ.

Năm 757, Đường Túc Tông đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ Đô hộ Trấn Nam. Chín năm sau (766) lại đổi về tên cũ.

Năm 863, nhà Đường bãi bỏ Phủ Đô hộ An Nam và lập Hành Giao Châu thay thế đóng tại nơi là Quảng Tây ngày nay. Nhưng chưa đầy 1 tháng thì cho tái lập Phủ Đô hộ An Nam nằm trong Hành Giao Châu.

Năm 866, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Tĩnh Hải Quân.

Dân số

Theo số liệu thống kê của nhà Đường, ở quận Giao Chỉ có 9 huyện 30.056 hộ; quận Cửu Chân có 7 huyện 16.135 hộ; quận Nhật Nam có 8 huyện 9915 hộ, quận Ninh Việt ở phía đông bắc, gồm Khâm châu không rõ số hộ; 3 quận mới chiếm của Lâm Ấp có 4.135 hộ[1].

 

***

Sự cai trị của Trung Quốc

Thời Tùy

Về danh nghĩa, Giao Châu cũng như các quận khác của nhà Tùy, trực tiếp phụ thuộc chính quyền trung ương. Nhưng trên thực tế, như lời thú nhận của vua Tùy Văn Đế, châu Giao chỉ là đất “ràng buộc lỏng lẻo”[2].

Cuối thời nhà Tùy, do loạn lạc, các quan cai trị ở Giao châu cũng cát cứ cách ly với chính quyền trung ương. Khi Tùy Dạng Đế chết, thái thú Khâu Hòa không biết. Khâu Hòa bóc lột nhân dân địa phương rất nặng, nhà cửa giàu có ngang với vương giả[3].

Thái thú Cửu Chân là Lê Ngọc (vợ là người Việt) cùng các con xây thành lũy kháng cự nhà Đường mới thay nhà Tùy. Sau Khâu Hòa, tới năm 622, Lê Ngọc cùng thái thú Nhật Nam là Lý Giáo cũng quy phục nhà Đường.

Thời Đường

Nhà Đường coi An Nam là một trọng trấn và tăng cường bóc lột rất nặng dưới nhiều hình thức. Hằng năm các châu quận ở đây phải cống nạp nhiều sản vật quý (ngà voi, đồi mồi, lông trả, da cá, trầm hương, vàng, bạc…) và sản phẩm thủ công nghiệp (lụa, tơ, sa, the, đồ mây, bạch lạp…).

Ngoài chế độ cống nạp, người bản địa phải nộp nhiều loại thuế mới. Có nhiều loại thuế và chính sử nhà Đường phải thừa nhận rằng các quan lại ở An Nam đã đánh thuế rất nặng[4]. Riêng thuế muối ở Lĩnh Nam hàng năm bằng 40 vạn quan tiền. Ngoài thuế muối và gạo, còn phải nộp thuế đay, gai, bông và nhiều thuế “ngoại suất” (thuế đánh 2 lần). Nhà Đường dựa vào tài sản chia làm 3 loại thuế:

  1. Thượng hộ nộp 1 thạch 2 đấu
  2. Thứ hộ nộp 8 đấu
  3. Hạ hộ nộp 6 đấu

Các hộ vùng thiểu số nộp 1/2 số quy định trên. Song có những quan lại nhà Đường vẫn bắt người thiểu số nộp toàn bộ số thuế như các hộ ở đồng bằng. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của người Việt, mà cụ chống thuế điển hình là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến chống lại Lưu Diên Hựu năm 687.

Sử nhà Đường ghi nhận không ít các quan lại đô hộ vơ vét của người Việt để làm giàu và chạy chức, thăng tiến. Cao Chính Bình “phú liễm nặng”, Lý Trác “tham lam ăn hối lộ, phú thuế bạo ngược”, bắt người dân miền núi phải đổi 1 con trâu bò chỉ để lấy được 1 đấu muối; Lý Tượng Cổ “tham túng, bất kể luật pháp”…[5].

Để củng cố sự cai trị, nhà Đường tăng cường xây cất thành trì và quân phòng thủ ở Tống Bình, châu Hoan, châu Ái. Trong phủ thành đô hộ Tống Bình, thường xuyên có 4.200 quân đồn trú. Ở vùng biên giới phía tây bắc như miền Lâm Tây, Lân, Đăng hằng năm có 6.000 quân trấn giữ gọi là quân “phòng đông” (phòng giữ vào mùa khô) để chống sự xâm lấn của nước Nam Chiếu. Thời gian đầu, nhà Đường chỉ dùng quân trưng tập từ phương bắc sang làm quân “phòng đông”, nhưng từ thời Đường Trung Tông[6] buộc phải dùng cả quân bản địa người Việt xen lẫn.

***

Những cuộc tấn công của thế lực bên ngoài

  Sailendra và các cuộc tấn công đường biển vào An Nam – Champa

Ngoài các loại thuế, từ cuối thế kỷ 8, người Việt còn bị thiên tai (hạn, lụt) trong nhiều năm và những cuộc xâm lấn, cướp phá của các nước lân bang như Nam Chiếu, Lâm Ấp, Chà Và (vương quốc Sailendra hình thành trên đảo Java)… Quân tướng nhà Đường nhiều lần bất lực không chống lại được những cuộc tấn công đó khiến người bản địa bị sát hại đến hàng chục vạn.

Sailendra từ đảo Java

Từ thế kỷ 8, vương quốc Sailendra được thành lập ở đảo Java và trở thành một cường quốc ở Đông Nam Á, họ lần lượt chinh phục các tiểu quốc ở đảo Sumatra, bán đảo Mã Lai, xâm chiếm Thuỷ Chân Lạp, bảo hộ Lục Chân Lạp, tấn công Chăm Pa, An Nam thuộc nhà Đường cũng không nằm ngoài mục tiêu chinh phục đó. Năm 767, đoàn quân Sailendra theo đường biển xâm nhập vào thủ phủ Tống Bình. Tại địa điểm Chu Diên (ngày nay gần Hà Nội, viên quan nhà Đường là Trương Bá Nghi đã đánh bại quân Java dẫn tới họ phải rút lui theo đường biển

Nam Chiếu

Năm 737, Nam Chiếu – một quốc gia của người Bạch và người Di ở vùng Vân Nam ngày này – thành lập. Dần dần, Nam Chiếu mạnh lên chống lại nhà Đường, tấn công Thổ Phồn, Tây Tạng và Giao Châu.

Các sử liệu còn ghi lại những đợt Nam Chiếu tấn công Giao Châu vào các năm 846, 860, 862, 863-865. Đặc biệt, trong lần năm 863-865, quân Nam Chiếu đã huy động một lực lượng 50 ngàn quân tấn công Giao Châu, chiếm thủ phủ, giết các quan cai trị người Hán, giết hại tới 15 vạn người Giao Châu. Sau đó vua Nam Chiếu sai Đoàn Tù Thiên ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Nhà Đường phải di chuyển Phủ Đô hộ An Nam đến Hải Môn. Tháng 9 năm 865, Cao Biền mới đánh lui được quân Nam Chiếu khỏi Giao Châu.[7]

 

***

Sự kháng cự của người Việt

Mùa thu năm 687, do không chịu nổi ách sưu thuế nặng nề, người châu Giao là Lý Tự Tiên liền lãnh đạo dân nổi dậy. Quan nhà Đường cai trị là Lưu Diên Hựu đã giết Lý Tự Tiên. Đồng chí của Lý Tự Tiên là Đinh Kiến đem quân vây đánh Lưu Diên Hựu, chiếm được thành Tống Bình và giết được viên quan này. Nhà Đường phải phái Tào Trực Tĩnh từ châu Quế sang dẹp và giết Đinh Kiến.

Tháng 4 năm 713, Mai Thúc Loan, người châu Hoan xưng vua, cho xây thành lũy, lập kinh đô Vạn An[8], tích cực rèn tập tướng sỹ và sai sứ giả sang các nước Lâm Ấp, Chân Lạp phủ dụ họ đem quân hỗ trợ. Ông tự xưng là Mai Hắc Đế. Năm 714, Mai Hắc Đế tiến binh đánh thành Tống Bình. Thái thú nhà Đường là Quách Sở Khách cùng đám thuộc hạ không chống cự lại được, phải bỏ thành chạy về nước. Lực lượng Mai Hắc Đế lúc đó lên tới chục vạn quân. Nhà Đường bèn huy động 10 vạn quân do tướng Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách sang đàn áp được.

Năm 791, anh em Phùng Hưng và Phùng Hãi nổi dậy kéo quân vây Phủ Đô hộ An Nam. Tiết độ sứ là Cao Chính Bình đối phó không được nên sinh bệnh mà chết. Phùng Hưng chiếm thành, làm chủ châu Giao. Sau khi ông mất, con ông là Phùng An đã đầu hàng Triệu Xương nhà Đường.

Năm 819, người Tày – Nùng ở Tả, Hữu Giang (phía Tây Bắc của châu Giao) nổi dậy chống nhà Đường. Quan cai trị Lý Tượng Cổ (tông thất nhà Đường) sai thứ sử châu Hoan là Dương Thanh mang 3.000 quân đi dẹp. Dương Thanh thừa cơ nổi dậy chiếm được Phủ Đô hộ, giết được Lý Tượng Cổ. Sau tướng nhà Đường là Quế Trọng Vũ dùng kế chia rẽ Dương Thanh với các tướng thuộc hạ. Ông không giữ được thành, cuối cùng bị bắt và bị giết. Các thủ hạ lui về giữ Trường châu[9] đến tháng 7 năm 820 thì bị dẹp hẳn.

Ngoài 4 cuộc khởi nghĩa lớn trên, còn nhiều cuộc nổi dậy nhỏ khác của người Việt, như các năm 803, 823, 841, 858, 860, 880… Nhiều lần quan đô hộ nhà Đường đã bỏ phủ thành chạy.

Người Việt giành lại quyền tự chủ

Trong thời kỳ đầu, nhà Đường còn mạnh, các cuộc nổi dậy của người Việt ít xảy ra và hay bị đàn áp nhanh chóng. Từ sau loạn An Sử (755-763), nhà Đường phải đối phó với nạn phiên trấn cát cứ. Từ 10 Tiết độ sứ thời Đường Huyền Tông tăng lên thành 40-50 trấn, sự kiểm soát của chính quyền trung ương ngày càng yếu đi.

Đó chính là điều kiện cho các cuộc nổi dậy của người Việt trong thế kỷ 9 thường xảy ra hơn.

Mặt khác, người Việt thuộc tầng lớp trên ngày càng có vai trò quan trọng hơn trước trong bộ máy cai trị, dù nhìn chung họ vẫn bị người phương Bắc áp chế[10]. Một số hào trưởng người Việt được nhà Đường sử dụng vào việc cai trị ở địa phương để quản lý người bản địa. Điển hình trong những người Việt thăng tiến nhất là Khương Công Phụ đã sang phương Bắc thi đỗ tiến sĩ và làm quan ở trung nguyên.

Cuối thế kỷ 9, tại Trung Quốc nổ ra khởi nghĩa Hoàng Sào. Khởi nghĩa bị tiêu diệt nhưng các quân phiệt cũng nhân đó gây nội chiến và cát cứ công khai. Nhà Đường bị quyền thần Chu Ôn khống chế.

Chu Ôn từng cho anh ruột là Chu Toàn Dục sang làm Tiết độ sứ ở Việt Nam, nhưng Toàn Dục quá kém cỏi không đương nổi công việc nên Chu Ôn phải gọi về.

Năm 905, Chu Ôn ghét Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân là Độc Cô Tổn là người không cùng cánh, đày ra đảo Hải Nam và giết chết. Trong lúc nhà Đường chưa kịp cử quan cai trị mới sang trấn nhậm, một hào trưởng người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm lấy thủ phủ Đại La[11], tự xưng là Tiết độ sứ. Chu Ôn đang mưu cướp ngôi nhà Đường, đã nhân danh vua Đường thừa nhận Khúc Thừa Dụ.

Người Việt khôi phục quyền tự chủ từ đó. Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 3 kéo dài hơn 300 năm chấm dứt.

 


***

Khúc Thừa Dụ

Khúc Thừa Dụ (chữ Hán: 曲承裕; trị vì: 905-907) là người đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc Việt sau gần 1.000 năm bị triều đình Trung Hoa đô hộ.

Bối cảnh

Cuối thế kỷ 9, chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu nghiêm trọng. Nạn cát cứ của quân phiệt địa phương ngày càng ác liệt. Khởi nghĩa Hoàng Sào (874-884) đã làm triều đình nhà Đường rung chuyển.

Đầu thế kỷ 10, nhà Đường suy yếu rơi vào tay quyền thần Chu Ôn, các thế lực cát cứ nổi lên đánh giết lẫn nhau, tạo ra thế chia cắt 5 đời 10 nước (Ngũ đại Thập quốc). Ở An Nam (lúc đó nhà Đường đổi gọi là Tĩnh Hải quân), Tiết độ sứ Độc Cô Tổn mới sang đã rất độc ác mất lòng người, bị gọi là “Ngục Thượng thư” (thượng thư ác). Tổn lại không cùng phe với Chu Ôn nên chỉ vài tháng lại bị Chu Ôn dời tiếp ra đảo Hải Nam và giết chết. An Nam do đó không có người cai quản.

Xây nền độc lập

Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên[1], được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Đại La (Tống Bình cũ – Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ.

Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) viết: “Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ…”.

Sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên đất Tĩnh Hải quân, ông đã cho xây dựng chính quyền dựa trên danh xưng của chính quyền đô hộ nhà Đường, nhưng thực chất là một chính quyền độc lập và do người Việt quản lý. Ông khéo léo dùng danh nghĩa “xin mệnh nhà Đường” buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước “Đồng bình chương sự”. Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ “Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu”, tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ.

Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là Khúc Hạo lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng đời sau nhớ ơn và gọi ông là Khúc Tiên chủ..

Công lao sự nghiệp

Khúc Thừa Dụ được xem là người mở đầu cho chính sách ngoại giao khôn khéo của người Việt đối với triều đình phương Bắc: “độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa”. Tuy còn chính quyền vẫn còn mang danh hiệu của nhà Đường, nhưng về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, về cơ bản kết thúc ách thống trị hơn 1.000 của phong kiến phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là người đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc.


***

Bắc thuộc lần thứ tư

Năm Bính Tuất (1406), nhà Minh đem quân sang, lấy lý do là để khôi phục nhà Trần, nhưng thực chất đã sáp nhập Việt Nam thành quận huyện của Trung Quốc và cử quan lại người Hán sang cai trị.

Năm 1407, Giản Định vương, con thứ của vua Trần Nghệ Tông xưng làm Giản Định Đế (1407-1409) để nối nghiệp nhà Trần (thành nhà Hậu Trần) và bắt đầu một cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại.

Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, Thanh Hóa.

Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thành công, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư, và mở đầu một triều đại mới của Việt Nam: nhà Hậu Lê. Theo truyền thuyết, Lê Lợi thắng do nhờ có kiếm thần của Long Quân.

So với giai đoạn một nghìn năm Bắc thuộc, thời kỳ Bắc thuộc này tuy không dài bằng, nhưng chính sách đồng hóa và bóc lột được thực hiện mạnh mẽ hơn. Nhà Minh bắt người Việt phải theo kiểu người Trung Quốc, từ cách ăn mặc, học hành, đến việc cúng tế. Các tài sản quý như người tài, sách vở, báu vật đều bị đem về Trung Quốc. Trong số đó có các cuốn sách văn học, lịch sử, binh pháp,… có giá trị và đã được truyền lại từ nhiều đời, hầu hết đã trở thành thất truyền ở Đại Việt kể từ đó. Khoảng 7600 thương gia và nghệ nhân Đại Việt (trong đó có nghệ nhân chế tạo súng Hồ Nguyên Trừng, nghệ nhân kiến trúc Nguyễn An) đã bị bắt đưa sang Nam Kinh, thủ đô Trung Quốc thời bấy giờ. Ngoài ra, nhà Minh còn áp dụng hệ thống sưu cao thuế nặng (bao gồm cả thuế muối) cùng với việc đẩy mạnh khai thác các sản vật quí phục vụ việc cống nộp.

Thời Bắc thuộc lần 4 hay thời thuộc Minh trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thời kỳ thuộc Minh kéo dài 20 năm.

Nhà Minh xâm chiếm Đại Ngu

Cuối thế kỉ 14 nhà Trần sa sút, Hồ Quý Ly dần dần kiểm soát cả triều đình, ra nhiều biện pháp thanh trừng những người trung thành với triều Trần. Ông lên ngôi vua năm 1400, đặt tên nước là Đại Ngu, bắt đầu thực hiện nhiều cải tổ trong hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, do thực hiện quá nhiều thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được nhiều cựu thần nhà Trần cũng như dân chúng ủng hộ, lại thêm tình hình kinh tế và xã hội toàn quốc suy yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng. Nhân cơ hội đó, năm 1406 nhà Minh dùng chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để mang quân sang xâm lược nước Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng thất bại hoàn toàn vào giữa năm 1407. Nước Đại Ngu bị tiêu diệt và bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ.

Tướng nhà Minh là Trương Phụ xui giục một số người Việt đến trước quân doanh xin được trở lại làm quận huyện của nhà Minh vì nhà Trần đã tuyệt tự[1]. Minh Thành Tổ nhân đó đổi gọi An Nam thành quận Giao Chỉ, kinh đô Thăng Long trước đây đổi gọi là thành Đông Quan.

Bộ máy cai trị

Quận Giao Chỉ được thiết lập bộ máy cai trị giống như các đơn vị hành chính của nhà Minh khi đó, gồm có 3 ty trực tiếp thuộc vào triều đình Yên Kinh:

  1. Đô chỉ huy sứ ty phụ trách quân chính
  2. Thừa tuyên bố chính sứ ty phụ trách dân sự và tài chính
  3. Đề hình án sát sứ ty phụ trách tư pháp

Các quan chánh, phó các ty đều là người phương bắc sang. Một số người Việt được trọng dụng vì có công với nhà Minh như Nguyễn Huân, Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung…

Hành chính

Cao Hùng Trưng, tác giả sách An Nam chí cho biết: Nhà Minh chia quận Giao Chỉ làm 17 phủ là:

  • Giao Châu
  • Bắc Giang
  • Lạng Giang
  • Tam Giang
  • Thái Nguyên
  • Tuyên Hóa
  • Kiến Bình
  • Tân An
  • Kiến Xương
  • Phụng Hóa
  • Thanh Hóa
  • Trấn Man
  • Lạng Sơn
  • Tân Bình
  • Nghệ An
  • Thuận Hóa
  • Thăng Hoa

Dưới 17 phủ là 47 châu, 154 huyện, 1 vệ, 13 sở, 1 thuyền chợ[2].

Trong 17 phủ trên, phủ Thăng Hoa thực chất chỉ đặt khống vì khi quân Minh tiến đến Hóa châu thì vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại đã mang quân chiếm lại những vùng đất phải nộp cho nhà Hồ trước đây (năm 1402) là 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Do đó trên thực tế nhà Minh chỉ cai quản Giao Chỉ gồm 16 phủ, địa giới phía nam chỉ đến Hóa châu[3].

Năm 1408, Trương Phụ tâu về nhà Minh: Giao Chỉ đông tây dài 1760 dặm, nam bắc dài 2700 dặm.

Để tăng cường quản lý Giao Chỉ, năm 1419, theo đề nghị của Lý Bân, nhà Minh tổ chức lại hệ thống xã thôn thành lý và giáp. Cứ 10 hộ thành 1 giáp do Giáp trưởng đứng đầu; 110 hộ thành 1 lý do lý trưởng đứng đầu. Tương đương với lý, tại nội thành gọi là phường, tại ngoại thành gọi là sương.

Chức năng chính của Lý trưởng và Giáp trưởng là thu thuế cho chính quyền đô hộ. Họ thường bị o ép và đánh đập nên khi được giao chức đều rất lo sợ[4].

Để đảm bảo giao thông liên lạc giữa các phủ, châu, huyện của Giao Chỉ với Trung Quốc, năm 1415, nhà Minh cho mở đường thủy Vĩnh An, Vạn Ninh, đặt trạm tiếp đón tận Khâm châu; đồng thời cho đặt trạm ngựa đến thẳng phủ Hoành châu. Trên toàn địa bàn Giao Chỉ có 374 nhà trạm, nhiều nhất là phủ Giao Châu có 51 nhà trạm.

Dân số, vật lực

Năm 1408, nhà Minh kiểm soát được dân số 3.120.000 người, người “man” 2.087.500 người thì sau 10 năm chỉ còn quản lý được 162.558 hộ với 450.288 nhân khẩu[5].

Năm 1407, nhà Minh đã vơ vét mang về phương bắc 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; thóc gạo 13,6 triệu thạch, thuyền bè 8670 chiếc, binh khí hơn 2,5 triệu chiếc[6].

Giáo dục

Năm 1407, khi mới chiếm được Giao Chỉ, nhà Minh sai lùng tìm người tài năng, có sức khỏe, các thợ giỏi bắt mang về Trung Quốc. Kết quả bắt được 7000 người về phục vụ cho triều đình nhà Minh. Nhiều người tài, nghệ nhân của Đại Việt bị bắt đem sang Trung Hoa phục dịch cho Minh triều, mà nổi bật nhất còn lưu lại trong sử sách nước này phải kể đến các vị Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An…

Từ năm 1410, nhà Minh cho lập trường học ở các châu, phủ, huyện theo quy chế của Trung Quốc. Đến năm 1417 có 161 trường học. Tuy mở trường nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều đình hằng năm.

Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ. Điều đó nằm trong chính sách dùng người Việt trị người Việt của nhà Minh.

Lao dịch

Nhằm thực hiện nền thống trị lâu dài, nhà Minh không ngừng xây thành lũy, cầu cống, đường xá. Hàng chục vạn dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải ra các công trường với chế độ lao dịch cưỡng bức và sinh hoạt rất thiếu thốn[7].

Các công trường khai mỏ và mò ngọc trai cũng nhiều nhân công. Những người thợ phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, nguy hiểm đến tính mạng.

Tô thuế

Chính sách thuế khóa nhà Minh áp dụng với Giao Chỉ rất nặng nề, trong đó có 2 ngạch chính là thuế ruộng đất và thuế công thương nghiệp[8].

Thuế ruộng

Do thường xuyên phải đối phó những cuộc chống đối của người Việt, phạm vi kiểm soát ruộng đất của nhà Minh chỉ chủ yếu ở miền xung quanh Đông Quan.

Từ năm 1407 – 1413, nhà Minh không có khả năng quản lý ruộng đất, số ngạch khi tăng khi giảm không ổn định. Ruộng đất chỉ được trưng dụng một phần để ban cấp cho các thổ quan người Việt thay cho lương. Để cung ứng lương thực cho quân đội, nhà Minh không trông chờ vào nguồn tô thuế ruộng mà phải cho lính mở đồn điền tự sản xuất hoặc dùng hình thức trưng thu để vơ vét.

Năm 1414, sau khi dẹp xong nhà Hậu Trần, nhà Minh bắt dân Việt kê khai số ruộng đất trồng rau, trưng thu lương thực, tơ tằm và bắt đầu định ngạch thuế ruộng. Trên danh nghĩa thì lấy mức thu 5 thăng trên 1 mẫu như thời nhà Hồ, nhưng bắt dân tự khai khống 1 mẫu thành 3 mẫu để thu 3 phần thuế. Do đó trên thực tế mức thu cao gấp 3 lần nhà Hồ[9].

Thuế công thương nghiệp và thổ sản

Ngoài thuế ruộng, còn nhiều loại thuế thủ công nghiệp và thương mại. Hàng loạt Ty Thuế khóa, Ty Hà bạc, Ty tuần kiểm được đặt ra để tận thu.

Để tăng cường khai thác tài nguyên, năm 1415 nhà Minh tiến hành khám thu các mỏ vàng, mỏ bạc, mộ phu đãi vàng và mò trân châu. Năm 1418, nhà Minh mở trường mò ngọc trai, tìm kiếm hương liệu; bắt người Việt săn bắt những thú vật quý để nộp như rùa 9 đuôi, vượn bạc má, chồn trắng, hươu trắng, voi trắng.

Đối với nghề nấu muối và bán muối, nhà Minh nắm quyền khai thác độc quyền. Người đi đường chỉ được đem 3 bát muối và 1 lọ nước mắm.

Chính sách thuế khóa của nhà Minh làm người Việt kiệt quệ điêu đứng. Việc làm sai dịch và nộp lương liên miên khiến năm 1418 từ Diễn châu trở vào nam không được cày cấy[10]. Năm 1424, khi khởi nghĩa Lam Sơn lớn mạnh, nhà Minh mới ra một số chính sách xoa dịu người Việt như đình chỉ khai thác vàng bạc, khoan giảm trưng thu thuế khóa…

Đồng hóa

Tập quán, tôn giáo tín ngưỡng

Người Việt bị bắt phải theo những phong tục tập quán của Trung Quốc: phải để tóc dài, không được cắt tóc; phải để răng trắng không được nhuộm; phụ nữ phải mặc áo ngắn quần dài giống Trung Quốc. Quan lại phải đội khăn đầu rìu, áo viền cổ tròn có vạt, áo dài vạt bằng tơ lụa, hài ống cao có dây thắt.

Tục thờ cúng và sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt cũng bị đàn áp thô bạo. Nhiều đàn tràng thờ kiểu Trung Quốc được lập.

Đạo Phật tại Việt Nam phát triển cực thịnh vào thời Lý, Trần, có ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống người dân Đại Việt. Số lượng trước tác về đạo Phật thời này rất nhiều, ngày nay chỉ còn lại Thiền uyển tập anh cũng là do chính sách hủy diệt của nhà Minh. Ðại Tạng Kinh thực hiện và ấn loát nhiều lần dưới triều Trần, mỗi lần in hàng ngàn cuốn; sách Thiền Tông Chỉ Nam, Bình Ðẳng Sám Hối Khoa Văn của Trần Thái Tông, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập, Trúc Lâm Hậu Lục, Tăng Già Toái Sự của Trúc Lâm Ðiều Ngự (tức vua Trần Nhân Tông) và tám tác phẩm của Pháp Loa không tác phẩm nào còn lại.

Nhà Minh đưa sang những tác phẩm Trung Hoa về Nho giáo, Phật Giáo, Lão Giáo cho người Việt học. Chính quyền đô hộ lập Tăng Cương Ty và Ðạo Kỳ Ty để lo việc giáo dục Phật Giáo và Lão Giáo theo mẫu mực Trung Hoa[11].

Văn hóa

Đại Việt từ khi chính thức độc lập vào thế kỷ 10, trải qua hơn 500 năm đã lớn mạnh nhanh chóng, giữ vững bờ cõi, xâm lấn về phía nam, tất cả các mặt đều phát triển mạnh mẽ, nhất là văn hóa đã trở thành quốc hồn quốc túy và có nhiều nét riêng biệt so với Bắc triều. Chẳng hạn vua Trần Nhân Tông xuất gia lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là việc chưa hề thấy trong lịch sử Trung Hoa. Sự lớn mạnh và độc lập của Đại Việt là một hiểm họa cho Bắc triều đã được chứng minh qua các cuộc chiến tranh Việt – Tống, Việt – Nguyên; nên nhà Minh từ khi nắm quyền không thể không biết. Nhằm thủ tiêu nền văn hóa của người Việt, ngay năm 1406, khi phát binh đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ đã ban sắc viết:

Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh Nho gia, kinh Phật, đạo Lão không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót[12].

Năm 1407, Minh Thành Tổ ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn văn hóa triệt để hơn[13].:

Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại

Sự hủy diệt đó khiến Ngô Sĩ Liên, nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng:

Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn

Năm 1418, nhà Minh sai Hạ Thanh và Hạ Thì sang thu các loại sách ghi chép về sự tích xưa của người Việt đưa về Trung Quốc. Các tác phẩm văn học, sử học, pháp luật, quân sự của đời trước đã bị tịch thu gồm[14]:

  • Hình thư của Lý Thái Tông: 3 quyển
  • Quốc triều thông lễ của Trần Thái Tông: 10 quyển
  • Hình luật của Trần Thái Tông: 1 quyển
  • Khóa hư tập của Trần Thái Tông: 1 quyển
  • Ngự thi của Trần Thái Tông: 1 quyển
  • Di hậu lục của Trần Thánh Tông: 2 quyển
  • Cơ cừu lục của Trần Thánh Tông: 1 quyển
  • Trần Triều đại điển của Trần Dụ Tông: 1 quyển
  • Trùng Hưng thực lục của Trần Nhân Tông: 1 quyển
  • Thi tập của Trần Nhân Tông: 1 quyển
  • Thủy vân tùy bút của Trần Anh Tông: 1 quyển
  • Thi tập của Trần Minh Tông: 1 quyển
  • Bảo Hòa điện dư bút của Trần Nghệ Tông: 8 quyển
  • Thi tập của Trần Nghệ Tông: 1 quyển
  • Việt điện U linh tập của Lý Tế Xuyên: 1 quyển
  • Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo: 1 quyển
  • Vạn Kiếp bí truyền của Trần Hưng Đạo: 1 quyển
  • Tứ thư thuyết ước của Chu Văn An: 1 quyển
  • Tiều Ẩn thi của Chu Văn An: 1 quyển
  • Sầm lâu tập của Trần Quốc Tụy: 1 quyển
  • Lạc Đạo tập của Trần Quang Khải: 1 quyển
  • Băng Hồ ngọc thác tập của Trần Nguyên Đán: 1 quyển
  • Giới Hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn: 1 quyển
  • Hiệp thạch tập của Phạm Sư Mạnh: 1 quyển
  • Cúc Đường di cảo của Trần Nguyên Đào: 2 quyển
  • Thảo nhàn hiên tần của Hồ Tông Thốc: 1 quyển
  • Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc: 1 bộ
  • Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc: 1 quyển
  • Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu: 1 quyển
  • Nhị Khê thi tập của Nguyễn Phi Khanh: 1 quyển
  • Phi sa tập của Hàn Thuyên: 1 quyển

Lấy đi sách vở của người Việt, nhà Minh mang sang những sách vở Trung Quốc phát cho các thôn, huyện để tuyên truyền văn hóa Trung Quốc.

***

Người Việt giành lại nước

Ngay khi nhà Hồ thất bại, đã có nhiều phong trào chống Minh bắt đầu nổi lên. Trong các phong trào chống Minh, lớn nhất là sự nổi dậy của nhà Hậu Trần và khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.

Giữa năm 1407, nhân dân huyện Đông Lan và Trà Thanh thuộc Diễn châu nổi dậy phá ngục, giết huyện quan. Trương Phụ và Trần Húc mang quân vào dẹp.

Tại châu Thất Nguyên (Lạng Sơn), dân tộc bản địa lập căn cứ chống Minh. Trương Phụ sai Cao Sĩ Văn đi đánh, đến châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) thì bị quân khởi nghĩa giết chết. Sau Trương Phụ phái Trình Dương tăng viện mới thắng được.

Tháng 11 năm 1407, Phạm Chấn nổi dậy, lập Trần Nguyệt Hồ – một người tự xưng là tông thất nhà Trần – làm vua ở Bình Than. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn, Trần Nguyệt Hồ bị bắt, Phạm Chấn trốn thoát và gia nhập cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần.

Dù ban đầu lấy chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất sau đó nhà Minh lại sai lùng bắt con cháu nhà Trần. Sự nổi dậy của nhà Hậu Trần bắt dầu từ cuối năm 1407 với sự kiện Trần Giản Định Đế lên ngôi. Lực lượng này đã làm chủ từ Thuận Hóa trở ra, tiến ra bắc và đánh bại quân Minh một trận lớn ở Bô Cô cuối năm 1408. Nhưng sau đó hiềm khích trong nội bộ khiến lực lượng bị suy yếu nghiêm trọng. Cuối cùng đến năm 1413, vua Trùng Quang Đế và các tướng lĩnh bị bắt. Nhà Hậu Trần chấm dứt.

Cùng thời gian nhà Hậu Trần nổi lên, trong năm 1407 – 1408 còn các phong trào nhỏ lẻ khác như Chu Sư Nhan ở An Định (Thái Nguyên), Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí ở Thái Nguyên, Trần Nguyên Thôi ở Tam Đái (Phú Thọ), Trần Nguyệt Tôn ở Đồng Lợi… Do các cuộc khởi nghĩa này quy mô nhỏ, không liên kết được với nhau nên nhanh chóng bị dẹp.

Từ cuối năm 1409, khi Trùng Quang Đế lên ngôi, có thêm nhiều cuộc khởi nghĩa khác. Hoàng Cự Liêm từng bị quân Minh đánh bại, bỏ trốn lại nổi dậy. Thiêm Hữu và Ông Nguyên dấy quân ở Lạng Giang. Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà, Dương Thế Chân và Ông Lão nổi lên ở Thái Nguyên. Ngoài ra ở Thái Nguyên còn có quân khởi nghĩa “áo đỏ” hoạt động mạnh trong vùng rừng núi và vào thượng du Thanh Hoá, Nghệ An.

Đồng Mặc khởi nghĩa ở Thanh Hóa, bắt sống được tướng Minh là Tả Địch và buộc Vương Tuyên tự vẫn. Tại Thanh Oai (Hà Nội) có khởi nghĩa Lê Nhị. Lê Nhị bắt giết cha con tướng Lư Vượng và chiếm giữ Từ Liêm.

Năm 1410, Nông Văn Lịch khởi nghĩa ở Lạng Sơn, giết được nhiều quân Minh. Tướng người Việt là Mạc Thúy mang quân lên dẹp bị trúng tên tử trận.

Sang năm 1411, Trương Phụ được lệnh mang quân sang tiếp viện cho Mộc Thạnh để dẹp các phong trào chống đối của người Việt một lần nữa. Nhà Minh huy động quân 6 Đô ty Tứ Xuyên, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam, Quý Châu và 14 vệ tiến sang.

Sau khi dẹp được nhà Hậu Trần, quân Minh quay sang dẹp các cuộc khởi nghĩa nhỏ khác. Em Trùng Quang Đế là Trần Quý Tám thu thập tàn quân Hậu Trần khởi binh. Một tông thất khác cũng có tên là Trần Nguyệt Hồ (không phải Trần Nguyệt Hồ khởi nghĩa ở Bình Than năm 1407) cũng nổi dậy. Một vài cánh quân nhỏ khác hưởng ứng như Nguyễn Tông Biệt, Hoàng Thiêm Hữu. Tới năm 1415, hầu hết các cánh quân khởi nghĩa bị dẹp, chỉ còn vài phong trào với quy mô hẹp và không ảnh hưởng tới sự cai trị của nhà Minh như Trần Quý Tám ở Tĩnh An (Quảng Ninh), Nguyễn Tống Biệt ở Hạ Hồng, quân “áo đỏ” ở tây bắc…

Năm 1418, Lê Lợi dấy binh, bắt đầu khởi nghĩa ở Lam Sơn. Thời gian đầu, quân Lam Sơn gặp nhiều khó khăn ở vùng núi Thanh Hóa. Từ năm 1424, quân Lam Sơn thay đổi chiến thuật: tiến vào Nghệ An, giải phóng toàn bộ vùng đất phía nam. Sau đó Lê Lợi tiến ra bắc, đánh bại các đạo quân sở tại và 4 đạo quân viện binh lần lượt sang từ năm 1426 đến 1427.

Cuối cùng, tướng nhà Minh là Vương Thông phải xin giảng hòa, rút quân về nước. Người Việt giành lại quyền độc lập tự chủ sau 20 năm. Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Lê.

 

Share