Công khai minh bạch để tăng hiệu quả đầu tư

Cơ chế luật pháp về sử dụng nguồn vốn Nhà nước trong đầu tư, xây dựng chưa hoàn chỉnh.

Cần minh bạch để nhân dân giám sát hiệu quả cũng như quá trình thực thi các công trình… Đó là những vấn đề được các đại biểu đề cập đến tại hội thảo “Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tính hiệu quả của các dự án đầu tư, sử dụng vốn Nhà nước” vừa diễn ra ngày 1-6 tại Bộ Tư pháp. Hội thảo do Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) tổ chức.

TS Võ Đình Toàn – Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp đánh giá: Pháp luật quy định về dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước có phạm vi điều chỉnh rộng, các quy phạm pháp luật được ban hành ở nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác, nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi nhiều lần. “Đây là hạn chế mang tính phổ biến của hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều đó đặt ra yêu cầu phải có sự đánh giá toàn diện, xác định nguyên nhân và tìm lời giải khắc phục” – TS Toàn nhấn mạnh.

Đồng quan điểm về việc pháp luật chưa quy định rõ ràng về vấn đề sử dụng vốn Nhà nước trong đầu tư, hơn nữa trong luật đầu tư lại sử dụng từ “đầu tư khác” là một từ không cụ thể, TS Lê Đăng Doanh nêu ý kiến cần phải phân tích tính công khai, minh bạch để nhân dân giám sát, tăng chế tài, đồng thời có so sánh với quốc tế trong vấn đề sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư.

Công khai minh bạch để chống tiêu cực cũng là ý kiến của PGS-TS Đặng Văn Thanh. Theo ông Thanh, cơ chế luật pháp cần phải hướng tới việc làm sao điều chỉnh được việc chi tiêu, mua sắm của Chính phủ. Ông Thanh nêu ra ba vấn đề cần lưu tâm, đó là: Chính phủ phân bổ các nguồn lực như thế nào; cơ chế đầu tư của chi tiêu công; sau khi đầu tư, mua sắm tài sản đó thuộc về ai, ai sử dụng? “Cần kiểm tra, kiểm soát tài sản quốc gia, kể cả tài sản định lượng được và tài sản không định lượng được”. Cũng theo ông Thanh, việc nâng cao chất lượng chi tiêu của Chính phủ sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng hoạt động tài chính, ngân sách, tạo dựng và củng cố lòng tin của nhân dân.

PGS-TS Phạm Duy Nghĩa (ĐH Kinh tế TP.HCM) đưa ra một mô hình mô tả toàn bộ quy trình đầu tư công theo tám giai đoạn. Theo đó, chi tiêu ngân sách cần phải theo đúng các quy trình làm luật, cần hạn chế các ý tưởng viển vông, tăng minh bạch, thảo luận và quyết định tại các cơ quan dân cử về các chỉ tiêu hay tiêu chí đánh giá các sáng kiến đầu tư có thể làm. “Hãy cho Quốc hội được quyền biết, quyền lắc khi cần”; “Tôi chưa rõ hiện nay các dự án đầu tư công ở Việt Nam có được cơ quan nào đánh giá sau khi thực hiện hay không, nếu có, hiệu quả pháp lý ảnh hưởng của các dự án đã nghiệm thu tới kế hoạch ngân sách tiếp sẽ ra sao”.

Vũ Quốc Tuấn, theo Doanh Nhân Sài Gòn


Minh bạch trong quản lý

Trong xã hội ta, với Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân”, thì tính minh bạch trong hoạt động quản lý là lẽ đương nhiên, cũng có thể coi là lẽ sống, nguồn sức mạnh của bộ máy công quyền.

Minh bạch trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của xã hội, thể hiện quyền của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước. Minh bạch cũng là một giải pháp rất quan trọng để khắc phục tệ quan liêu tham nhũng, làm trong sạch bộ máy quản lý.

Minh bạch trong quản lý cũng là điều kiện không thể thiếu để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của dân đóng góp cho các hoạt động quản lý. Minh bạch cũng là một yêu cầu cần thiết để thành công trong hội nhập quốc tế.

Thực tế cũng cho thấy, nếu những vụ việc mà dân quan tâm, công luận có nhiều ý kiến, nhất là những cơ chế, chính sách, những vụ việc liên quan đến hoạt động công vụ của cơ quan hoặc cá nhân quan chức, nếu được công bố minh bạch, thì sẽ xóa bỏ được những dư luận không đúng, tạo dựng mối quan hệ lành mạnh, trong sáng giữa cơ quan, công chức với người dân, củng cố niềm tin của dân đối với cơ quan cũng như uy tín của quan chức liên quan.

Từ thực tiễn, xin nêu lên một số vấn đề để thực hiện tính minh bạch trong quản lý và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước.

Tính minh bạch là thực hiện chế độ công khai, minh bạch về toàn bộ hoạt động quản lý của Nhà nước, trừ những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh cần giữ bí mật.

Cần nhấn mạnh: công khai gắn với minh bạch, vì có những trường hợp có công khai nhưng không minh bạch, vì không thuyết minh rõ tính xác thực, căn cứ đúng đắn của những vấn đề đã công bố công khai.

Trong lĩnh vực kinh tế, đầu tiên là công khai, minh bạch các quy hoạch, mà quan trọng nhất hiện nay là công khai, minh bạch trong quy hoạch sử dụng đất, trong việc cấp đất, sử dụng đất – nguồn tài nguyên quý giá của đất nước đang bị sử dụng lãng phí và bị tham ô, chiếm đoạt nghiêm trọng nhất.

Kế đến là minh bạch trong việc huy động và sử dụng ngân sách nhà nước, để khắc phục việc sử dụng ngân sách kém hiệu quả, gây nợ nần cho đời sau. Các dự án đầu tư công (dùng các nguồn vốn có nguồn gốc nhà nước) cũng cần được công khai, minh bạch, được giám sát chặt chẽ để tránh tham nhũng, lãng phí, kém hiệu quả và trở thành một nhân tố gây ra lạm phát.

Công khai, minh bạch về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng đang là một vấn đề được công luận quan tâm, vì đang có những số liệu khác nhau về vấn đề này.

Ví như có đúng là 20/21 tập đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh có lãi như đã công bố, nếu như các chi phí đầu vào cũng được tính đúng, tính đủ bình đẳng như các thành phần kinh tế khác; hoặc doanh nghiệp nhà nước có đóng góp xấp xỉ 40% GDP cả nước như các quan chức công bố, vì theo số liệu thống kê thì chỉ vào khoảng 27 – 28%; hoặc như về việc tăng giá điện vừa qua, công luận cũng có đòi hỏi minh bạch hóa cơ cấu giá điện, để việc tăng giá có cơ sở thuyết phục, v.v…

Việc công bố công khai, minh bạch quá trình hoạch định và thi hành các cơ chế, chính sách là rất cần thiết. Được thảo luận và tranh luận công khai, dân chủ, thì cơ chế, chính sách được bổ sung, hoàn chỉnh, do đó sẽ sát thực tế, đáp ứng đúng yêu cầu phát triển của đất nước, nhất là khắc phục được tình trạng “kinh doanh cơ chế”, lợi dụng cơ chế để mưu cầu lợi ích cục bộ, địa phương, phe nhóm.

Minh bạch giúp cho việc thi hành luật pháp được thông suốt, khắc phục tình trạng cùng một quy định nhưng cơ quan nhà nước hiểu và giải thích khác nhau. Môi trường kinh doanh minh bạch giúp cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin, tăng tính bình đẳng về cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, giúp họ yên tâm trong việc đặt kế hoạch kinh doanh.

Thủ tục hành chính được công khai, minh bạch sẽ góp phần khắc phục tệ tham nhũng của công chức, nhân viên cơ quan chức năng, tạo thuận lợi cho dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng là căn cứ để dân và doanh nghiệp giám sát hoạt động của công chức, khắc phục tệ nạn công chức sách nhiễu, vòi vĩnh dân và doanh nghiệp mỗi khi có việc đến cơ quan nhà nước.

Đối với cán bộ, công chức, việc cần làm thiết thực hiện nay là kê khai và công bố công khai, minh bạch tài sản của họ theo quy định. Trước mắt là thực hiện công khai, minh bạch tài sản của người ứng cử đại biểu Quốc hội. Cũng không kém phần quan trọng là minh bạch, công khai trong việc tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.

Trong tình hình hiện nay, làm được như vậy không những sẽ góp một biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo niềm tin của dân đối với bộ máy nhà nước.

Trách nhiệm giải trình là trách nhiệm của cơ quan, của người đứng đầu cơ quan nhà nước báo cáo, trình bày trước dân hoặc trước cơ quan, tổ chức đại diện của dân (như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các đoàn thể nhân dân…) về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Đây cũng là một hoạt động thể hiện quyền giám sát của dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, tránh được tình trạng khi có khuyết điểm, thiếu sót thường đùn đẩy, không rõ địa chỉ tổ chức hoặc cá nhân chịu trách nhiệm.

Nội dung giải trình không chỉ là trình bày những việc đã làm, nêu đúng được những ưu, khuyết điểm trong công tác của cơ quan nhà nước, nhất là trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Yêu cầu của việc giải trình là chân thực, khách quan, đúng sự thật, đúng trách nhiệm, không né tránh, đùn đẩy. Qua kết quả giải trình, có thể lấy ý kiến về sự tín nhiệm đối với cán bộ. Qua đó, có thêm căn cứ trong việc đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.

Trong tình hình nước ta hiện nay, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình không chỉ là một yêu cầu cấp thiết để thực hành dân chủ, bảo đảm quyền của dân trong tham gia quản lý đất nước, mà quan trọng hơn nữa, chính là một giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống tệ nạn tham nhũng – nỗi nhức nhối của xã hội, làm trong sạch bộ máy và củng cố niềm tin của dân đối với Nhà nước.

Trên thế giới, khi nêu ra vấn đề kiểm soát tham nhũng, người ta cũng đã nêu ra phương trình: Tham nhũng (corruption) = Độc quyền (monopoly) + Quyền tự quyết định (discretion) – Trách nhiệm giải trình (accountability) – Tính minh bạch (transparency) (theo Klitgaard, Robert E. 1988, “Controlling Corruption”).

Về những giải pháp để thực hiện được tính minh bạch trong quản lý kinh tế – xã hội hiện nay, có lẽ trước hết, phải củng cố nhận thức rằng bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức được dân cử ra để thực hiện chức năng quản lý đất nước theo pháp luật; họ được dân trả công bằng tiền thuế do dân đóng góp và họ cũng sẽ bị dân sa thải nếu không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Do vậy, công việc của họ nhất thiết phải đặt dưới sự giám sát của dân và do đó phải công khai, minh bạch, phải có trách nhiệm giải trình với dân. Cần xóa bỏ cho được tâm lý cán bộ, công chức là người đứng trên dân, có quyền ban phát cho dân mà không có trách nhiệm với dân, còn dân lại là người phải chịu ơn của cán bộ, công chức.

Cũng rất cần thiết giáo dục đạo đức, làm cho cán bộ, công chức tự thấy hổ thẹn với lương tâm của chính họ, xấu hổ với gia đình, bạn bè, khi họ tham nhũng, ăn cắp của dân, dù có khi họ vẫn “hạ cánh an toàn”.

Tiếp theo, cần có cơ chế ràng buộc mọi cơ quan nhà nước phải thực hiện đúng đắn các quy định về công khai, minh bạch trong quản lý. Những vấn đề hoặc văn bản nhà nước thuộc loại “mật” hoặc “tuyệt mật” cần được quy định chặt chẽ, có giám sát, phòng ngừa những trường hợp lạm dụng để hạn chế quyền được thông tin và quyền giám sát của dân.

Chúng ta đã có khá nhiều quy định về vấn đề này, như lấy ý kiến của dân trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hoặc quy chế dân chủ ở cơ sở, v.v… nay cần được thực hiện nghiêm túc.

Quá trình thực hiện minh bạch và trách nhiệm giải trình không hề dễ dàng, vì có thể gặp nhiều trở ngại. Nhưng nếu cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức đặt lợi ích của dân tộc, đất nước lên trên, chắc chắn sẽ khắc phục được trở ngại, tìm ra được những hình thức thích hợp để thực hiện và đạt hiệu quả thiết thực.

Hồ Viết Thịnh, Theo Pháp Luật Online

Share