Cuộc chiến Việt-Trung 1979

Tháng tư năm 1975, phó thủ tuớng Trung Quốc Lý Tiên Niệm tổ chức một buổi tiếp tân tại Bắc Kinh để chào mừng chiến thắng của Cộng Sản tại miền Nam Việt Nam.

Ván bài bốn bên

Lờ phái đoàn Hà Nội nhu không hiện diện, Lý tuyên bố Trung Quốc đa dành sẵn một chiếc tầu chở đầy thuốc men, thực phẩm và các đồ nhu yếu khác sẵn sàng cập bến Đa Nẵng hoặc Sài Gòn ngay sau khi giải phóng.

Truong Nhu Tảng, nguời cầm đầu phái đoàn chính phủ Cộng Hòa miền Nam thuật lại:

– Hàm ý của tuyên bố trên tất cả những ai có mặt đều hiểu rõ. Trong suốt thời gian chúng tôi ở Bắc Kinh, Trung Quốc đa đối xử với chúng tôi một cách thân thiện hon nhiều so với phái đoàn của nuớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Rõ ràng họ đa dùng co hội này để tỏ thái độ của họ với việc Hà Nội ngả hẳn theo Liên Xô và báo hiệu cho Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt nam rằng họ sẵn sàng ủng hộ một chính sách độc lập với miền Bắc.

Chuyến thăm Bắc Kinh

Nhung nếu Bắc Kinh đặt hy vọng rằng phe cộng sản miền Nam có thể có một độc lập nào đó với Hà Nội, họ đã thất vọng lớn. Trong một tiến trình vội vã, ngay từ tháng sáu 1975, Hà Nội đa thanh trừng các phần tử miền Nam nào có ý muốn độc lập với miền Bắc. Toàn bộ chính quyền miền Nam nằm trong tay những nguời từ miền Bắc gởi vào.

Mặc dầu vậy, ngày 22 tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị vẫn cầm đầu một phái đoàn sang Bắc Kinh cầu viện.

Đây là lần đầu tiên Lê Duẩn sang Bắc Kinh với tu cách lãnh tụ của một nuớc Việt Nam thống nhất.

Cuộc gặp gỡ này là một thất vọng cho cả hai bên. Đối tác chính của Lê Duẩn là Đặng Tiểu Bình, mới đuợc phục hồi sau 4 năm bị quản thúc tại gia.

Trong bài diễn văn đón mừng Lê Duẩn, Đặng nhấn mạnh đến nguy co của chủ nghia bá quyền và kêu gọi Duẩn hãy đi cùng với Trung Quốc chống lại Liên Xô.

Trả lời lại Đặng, Duẩn tuyên bố nếu không có sự giúp đỡ của toàn khối xã hội chủ nghia anh em thì chiến thắng tại Việt Nam là một chuyện không thể có đuợc. Nói một cách khác, Duẩn từ chối không chịu đi với Trung Quốc chống lại Liên Xô.

Mặc dầu vậy, Duẩn vẫn năn nỉ xin Bắc Kinh viện trợ như truớc năm 1973. Cố nhiên là điều này bị Trung Quốc từ chối.

Hiện nay các bạn không phải là đất nuớc nghèo nhất. Chúng tôi mới là đất nuớc nghèo nhất.

Mao Trạch Đông nói với Lê Duẩn

Năm 1973, khi Chu Ân Lai yêu cầu Lê Duẩn ngung cuộc chiến tại miền Nam trong mấy năm tới, Chu đã hứa sẽ viện trợ cho Hà Nội ở mức độ năm 1973 trong vòng năm năm, nhung lần này khi Duẩn nhắc lại lời hứa đó, phía Trung Quốc đa từ chối thẳng thừng. Trong cuộc gặp gỡ với Lê Duẩn vào ngày 24 tháng 9, Mao nói thẳng với Duẩn:

– Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đa để lại cho các bạn những khối luợng lớn vu khí, kho tàng, máy bay, tầu chiến. Hiện nay các bạn không phải là đất nuớc nghèo nhất. Chúng tôi mới là đất nuớc nghèo nhất. Chúng tôi có 800 triệu nguời phải nuôi.

Chu Ân Lai lúc này đã bị bệnh nặng, mọi việc điều hành hàng ngày đều nằm trong tay Đặng Tiểu Bình. Khác với Chu, Đặng không có những quan hệ cá nhân chặt chẽ với Việt Nam nhu quan hệ của Chu với Hồ Chí Minh, chính vì vậy mà Đặng có một thái độ cứng rắn hon là các lãnh tụ Trung Quốc khác đối với Việt Nam.

Chủ quyền hai đảo

Trong cuộc gặp gỡ ngày 24 tháng 9, Đặng và Duẩn đã đụng mạnh trong vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa.

Năm 1958 khi Trung Quốc tuyên bố lãnh thổ của họ bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa, Hà Nội đã không phản đối. Nguợc lại Phạm văn Đồng trong một giác thu gởi cho Chu Ân Lai đã viết là nuớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “công nhận và ủng hộ” tuyên bố của Trung quốc về lãnh thổ và lãnh hải và “tôn trọng” quyết định này.

Năm 1974, khi Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ trong tay chính phủ miền Nam Việt Nam, Hà Nội đã yên lặng không phản ứng. Nhung sau khi tiến chiếm xong miền Nam, Hà Nội đã công khai tuyên bố đoi chủ quyền trên hai quần đảo này.

Khi gặp gỡ Lê Duẩn vào ngày 29 tháng 9, Đặng đã giận dữ trách Duẩn về những luận điệu tuyên truyền chống Trung Quốc của báo chí Hà Nội:

– Chúng tôi không thoải mái chút nào khi đọc báo chí Việt Nam. Các bạn cứ nhấn mạnh đến nguy co từ phuong Bắc. Nguy co phuong Bắc của chúng tôi là sự hiện diện của quân đội Sô Viết ở biên giới phía Bắc chúng tôi nhung đối với các bạn điều này có nghia là Trung Quốc.

Rõ ràng ngay từ lúc đó Đặng Tiểu Bình đa có một mối căm hận lớn đối với cái mà Đặng gọi là “sự vô ân bạc nghia” của chính quyền Hà Nội.

Lê Duẩn kết thúc chuyến đi thăm Bắc Kinh mà không có một thông cáo chung nào đuợc đua ra. Duẩn còn hủy cả một bữa tiệc trả lễ các lãnh tụ Trung Quốc truớc khi ra về, một hành động đuợc coi là đặc biệt bất thuờng trong các quan hệ ngoại giao quốc tế. Hà Nội và Bắc Kinh đã chính thức cho thấy sự chia rẽ của họ.

Quan hệ ‘đặc biệt’ ở Đông Dương

Tháng 11 năm 1975, Hà Nội tổ chức Hội nghị Hiệp Thuong toàn quốc để thống nhất hai miền Nam Bắc đồng thời tìm cách kéo Lào và Campuchia vào trong một quan hệ đặc biệt duới sự lãnh đạo của Việt Nam.

Tháng 2 năm 1976, Kaysone Phomvihane tổng bí thu đảng Cộng Sản Lào sang thăm Hà Nội. Một bản thông cáo chung ký giữa Kaysone và Lê Duẩn vào ngày 12 tháng 2 tuyên bố hai nuớc Lào Việt có một quan hệ đặc biệt về hợp tác và hứa sẽ có những hành động chung chống lại “bọn đế quốc và phản động tay sai”.

Bản thông cáo chung cung hứa sẽ tăng cuờng “tình hữu nghị giữa Lào, Campuchia và Việt Nam”.

Đối với Pol Pot, bản thông cáo này là một cảnh cáo rằng Hà Nội sẽ không để cho Campuchia đồng minh với Trung Cộng chống lại Việt Nam.

Với cái chết của Chu Ân Lai vào đầu năm 1976 và cái chết của Mao vào cuối năm đó, Trung Quốc roi vào trong cảnh tranh quyền hỗn loạn.

Mặc dầu tháng 10 năm 1976 nhóm “bốn nguời” bị Hoa Quốc Phong thanh trừng nhung một cuộc tranh chấp mới lại diễn ra giữa Hoa Quốc Phong, nguời đuợc Mao chọn làm thừa kế, và Đặng Tiểu Bình.

Trong thời gian đó quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam nằm trong một tình thế nửa vời. Hai bên vẫn giữ quan hệ ngoại giao và Trung Quốc còn tiếp tục viện trợ cho Hà Nội nhung ở một mức độ thấp hon nhiều so với truớc. Tuy nhiên các cuộc đụng độ tại biên giới vẫn nổ ra ngày một nhiều hon.

Thăm dò Mỹ

Kẹt ở giữa cuộc tranh chấp của hai nuớc đan anh, và nhận thức khả năng viện trợ thấp kém của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, Hà Nội tìm cách bắt lại liên lạc với các nuớc phuong Tây nhất là Mỹ.

Chiến thắng của Jimmy Carter trong cuộc bầu cử 1976 mở cho Hà Nội hy vọng là có thể kiếm đuợc viện trợ của Mỹ mà Nixon đã hứa trong hiệp định Paris.

Những cuộc tiếp xúc đầu tiên đuợc mở ra tại Paris vào đầu năm 1977 giữa Richard Holbrooke và Phan Hiền nhằm bình thuờng hóa quan hệ ngoại giao nhung không đi đến đâu vì, say men chiến thắng, Hà Nội nhất định đoi Mỹ phải bồi thuờng chiến tranh truớc khi nói đến chuyện bình thuờng hóa.

Trong khi đó quan hệ giữa Hà Nội và Phnom Penh môt ngày một xấu đi. Việc “cáp duồn” những nguời Việt còn ở lại Campuchia và việc thanh trừng những phần tử cuối cùng thân Việt Nam bên trong đảng Cộng Sản Campuchia vào tháng 4 năm 1977 đã dẫn đến những cuộc tấn công bằng các đại đon vị của Khmer Đỏ vào vùng biên giới.

Trong khi đó một đợt lạnh giá bất thuờng đã làm tiêu hủy một phần lớn mùa màng tại miền Bắc dẫn đến việc Hà Nội phải kêu gọi Liên Hiệp Quốc và các nuớc thân hữu trợ giúp cứu đói. Nhung những lời kêu gọi của Hà Nội không gây đuợc phản ứng bao nhiêu.

Việc vội vã sáp nhập miền Nam vào với miền Bắc và chính sách đua các nguời có liên hệ với chính quyền miền Nam đi “học tập cải tạo” đã làm các chính phủ phuong Tây dội và tách rời với Hà Nội.

Đi theo Liên Xô

Cuối tháng sáu 1977, hội nghị trung uong đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định chuyển huớng. Đối nội, một kế hoạch tập thể hóa công nông nghiệp tại miền Nam đuợc đua ra. Đối ngoại, Hà Nội quyết định đi sát theo Liên Xô và sửa soạn tiến đánh Campuchia.

Tháng 10 năm 1977 Lê Duẩn bay sang Liên Xô. Tại Moscow, Duẩn đạt đuợc một thỏa hiệp mới với Brezhnev trong đó Liên Xô nhận cung cấp cho Hà Nội hai tầu ngầm, một khu trục hạm, một số tầu tuần tiễu và bốn phi đội Mig 21.

Đổi lại, Hà Nội bắt đầu chuyển các vu khí của Mỹ để lại tại miền Nam cho Ethiopia, một đan em mới của Liên Xô.

Muời ngày sau khi ở Liên Xô về, Duẩn bay sang Bắc Kinh để tìm cách thuyết phục Trung Quốc ngung ủng hộ cho Khmer Đỏ.

Cuộc gặp gỡ trở thành một cuộc cãi nhau tay đôi bằng những lời bóng gió. Tuyên bố trong bữa tiệc khoản đãi Lê Duẩn, Hoa Quốc Phong nói:

– Trung Quốc kiên quyết đồng minh với mọi nuớc có nguy co bị xâm luợc hoặc can thiệp lật đổ bởi những thế lực đế quốc hoặc đế quốc núp duới chiêu bài xã hội chủ nghia, và sẽ thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi nhất chống lại chủ nghia bá quyền.

Lê Duẩn cung trả lời lại Hoa Quốc Phong bằng tuyên bố:

– Việt Nam nhất định không cho phép một lực luợng đế quốc hoặc thế lực phản động nào xâm phạm vào nền độc lập tự do của đất nuớc.

Cái vỏ ngoài lịch sự trong bang giao giữa hai nuớc càng ngày càng tiêu tan. Chuyến đi của Lê Duẩn sang Bắc Kinh có hậu quả là khiến cho Trung Quốc quyết định ngả hẳn về phía Pol Pot mà truớc đó sau khi phe cực tả “bốn nguời” bị lật đổ Trung Quốc đa từ từ tách ra.

Đụng độ

Quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh trở nên căng thẳng hon vào năm 1978. Ngày 20 tháng 3, Hà Nội bắt đầu chiến dịch đan áp nguời Hoa tại Việt Nam. Muợn cớ đánh tu sản mại bản, hàng ngàn công an vu trang và bộ đội bao vây khu vực của nguời Hoa tại Chợ Lớn và lục soát từng nhà một để kiếm vàng và kiểm kê tài sản.

Chính cái đon mở đầu chống lại tu bản miền Nam cung là phát súng mở đầu cho cuộc đụng độ công khai với Trung Quốc.

Trong những ngày sau, hàng ngàn nguời Hoa bắt đầu bị áp lực phải rời khỏi Việt nam. Bắt đầu từ mùa hè năm 1978, Công An tại nhiều tỉnh miền Nam bắt đầu tổ chức nhung cuộc vuợt biên lớn công khai cho những nguời Hoa (và những nguời Việt tự nhận là nguời Hoa) mở đầu cho một cuộc di dân vỹ đại mà trong hai năm đua gần một triệu nguời Việt ra khỏi xứ.

Như trong một bi kịch Hy lạp, Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia càng ngày càng xích lại gần hon vào một cuộc chiến mà các bên đều không muốn.

Điều mỉa mai là bây giờ chính Hoa Kỳ, nuớc mà truớc kia Bắc Kinh và Hà Nội liên minh để tìm cách đẩy ra khỏi Đông Duong nay lại đuợc chính hai nuớc này mời trở lại.

Ngày 5 tháng 7 Mỹ và Trung cộng họp mật tại Bắc Kinh để thảo luận việc bình thuờng hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nuớc.

Ngày 7 tháng 7 Hà Nội xin mở lại thuong thuyết với Washington và chính thức bỏ điều kiện đòi Mỹ viện trợ truớc khi đi đến bình thuờng hóa.

Tháng chín Nguyễn Co Thạch sang New York và xin gặp Richard Holbrooke. Trong cuộc gặp gỡ lần này Thạch không đặt một điều kiện tiên quyết gì mà chỉ xin Mỹ đồng ý ra một tuyên bố chung là sẽ bình thuờng hóa quan hệ giữa hai bên.

Tuy nhiên trong cuộc tranh chấp nội bộ giữa phe chủ truong nghiêng về phía Việt Nam, Cyrus Vance và Richard Holbrooke, và phe chủ truong nghiêng về phía Trung Quốc do Brzezinski chủ xuớng, tổng thống Jimmy Carter ngả theo Brzezinski và việc bình thuờng hóa quan hệ giữa Washington và Hà Nội bị dẹp bỏ.

Thất bại tại Washington, Hà Nội quyết định đi sát thêm với Moscow.

Ngày 3 tháng 11 năm 1978 Lê Duẩn ký với Brezhnev một hiệp uớc tuong trợ kinh tế quân sự 25 năm và gia nhập khối Comecon. Ngày 15 tháng 12, Jimmy Carter tuyên bố bình thuờng hóa quan hệ với Trung Quốc. Và ngày 25 tháng 12 Việt Nam mở cuộc tấn công xâm luợc vào Campuchia.

Trái với những hy vọng của Trung Quốc, lực luợng Khmer Đỏ đã tan rã nhanh chóng truớc sự tấn công của Hà Nội.

Chỉ trong vòng hai tuần, ngày 7 tháng giêng năm 1979, Phnom Penh thất thủ. Truớc tình thế đó, ngày 14 tháng giêng, Trung Quốc gởi một phái đoàn sang Thái Lan để họp bàn về việc tổ chức một hệ thống tiếp tế cho Khmer Đỏ tiếp tục chiến tranh du kích chống lại Việt nam tại Campuchia.

Đồng thời ngày 28 tháng giêng năm 1979 Đặng Tiểu Bình sang Mỹ gặp Jimmy Carter.

Đuợc sự đồng tình ngầm của Carter, ngày 17 tháng 2 Trung Quốc mở ra cuộc chiến biên giới chống lại Việt Nam mở đầu cho một chu kỳ mới trong quan hệ giữa hai nuớc Việt Trung.

Về tác giả: Ông Lê Mạnh Hùng lấy bằng tiến si ở truờng SOAS, London năm 2000 với luận án về Ảnh huởng của Thế chiến Hai đối với kinh tế Việt Nam. Hiện sống ở London, ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất, “Nhìn Lại Sử Việt: Từ Tiền Sử đến Tự Chủ” (Virginia: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông, 2007).

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/02/090219_lemanhhung_analysis_tc2.shtml

***

Trung Quốc tấn công VN xuân 1979

Đúng 28 năm trước đây, ngày 17-2-1979, Trung Quốc đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam sau nhiều tuần căng thẳng.

Trong nhiều năm, nguồn tư liệu của phía Trung Quốc về cuộc chiến vẫn thuộc vào hàng danh sách mật, và thông tin chính thức chỉ có lẻ tẻ.

Tuy vậy, gần đây nhiều tư liệu lưu hành nội bộ về cuộc chiến năm 1979 đã được công bố, cộng thêm một số hồi ký của các sĩ quan cao cấp.

Một trong những câu hỏi chưa có lời giải đáp chi tiết là khi nào và làm thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định có hành động quân sự chống Việt Nam.

Những tư liệu mớ

Trong hồi ký của Zhou Deli, tham mưu trưởng của Quân khu Quảng Châu, nhớ lại rằng vào tháng Chín 1978, một cuộc họp về “cách giải quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt Nam chiếm đóng” đã diễn ra tại văn phòng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Trung Quốc.

Sự tập trung ban đầu là nhắm vào cuộc xung đột biên giới, và đề xuất đầu tiên muốn có một cuộc tấn công nhỏ vào một trung đoàn Việt Nam ở Trùng Khánh, ráp gianh Quảng Tây.

Nhưng theo hồi kí của Zhou Deli, sau khi nhận được tin tình báo cho biết Việt Nam sẽ tấn công Campuchia, đa số người dự họp cho rằng một cuộc tấn công cần có tác động lớn đến Hà Nội và tình hình Đông Nam Á.

Họ đề nghị tấn công vào một đơn vị quân chính quy Việt Nam ở một khu vực địa lý rộng hơn.

Mặc dù cuộc họp kết thúc mà không đưa ra quyết định nào, nhưng nó tạo tiền đề cho kế hoạch chiến tranh sau đó.

Tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan, Malaysia và Singapore. Trong chuyến đi, ông Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia.

Ngày 7-12, Ủy ban quân ủy trung ương có cuộc họp và quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở vùng biên giới phía nam của Trung Quốc.

Ngày hôm sau, họ ra lệnh cho các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch và chuẩn bị quân đầy đủ trước ngày 10-1-1979.

Chỉ thị nói rằng cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi 50 cây số từ biên giới và kéo dài hai tuần.

Trong một nghiên cứu có thể nói là mới nhất về cuộc chiến Việt Trung 1979, ra mắt tháng 12 năm 2005, tác giả Xiaoming Zhang bình luận rằng thời điểm ra lệnh này chứng tỏ Trung Quốc phản ứng trước cuộc tấn công sắp xảy ra của Việt Nam vào Campuchia.

Nhưng việc mở chiến dịch quân sự cả trước khi quân Việt Nam vượt qua sông Mêkông cũng cho thấy phản ứng của Bắc Kinh xuất phát từ nhiều năm bực bội vì hành vi của Việt Nam mà họ cho rằng đã “vô ơn” trước sự giúp đỡ trước đây.

Quyết định cụ thể

Tư liệu mới cho biết trong một cuộc họp vào ngày cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị một cuộc chiến chống Việt Nam.

Tại cuộc họp này, ông Đặng bổ nhiệm Xu Shiyou lãnh đạo quân từ Quảng Tây, Yang Dezhi lãnh đạo quân từ Vân Nam. Quyết định này đã bỏ qua Wang Bicheng, lãnh đạo Quân khu Côn Minh.

Không có một sự lãnh đạo tập trung, hai quân khu này sẽ tác chiến độc lập, gần như không có sự hợp tác.

Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc xâm lấn phải nhanh, và toàn bộ quân phải rút về sau khi hoàn tất mục tiêu chiến thuật.

Ngay sau cuộc họp, Đặng Tiểu Bình gửi hai sĩ quan cao cấp đến Vân Nam và Quảng Tây kiểm tra tình hình.

Lo lắng trước sự trễ nải của quân lính, người kiểm tra ra đề nghị hoãn cuộc tấn công thêm một tháng.

Người kiểm tra này, Zhang Zhen, viết trong hồi kí năm 2003 rằng cấp trên đồng ý hoãn cuộc tấn công đến giữa tháng Hai 1979.

Ngày 23-1, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc họp và quyết định quân đội phải sẵn sàng hành động trước ngày 15-2.

Hai ngày sau khi ông Đặng trở về sau chuyến thăm Mỹ và Nhật, hôm 11-2-1979, ông ra quyết định sẽ tấn công Việt Nam vào ngày 17-2.

Lệnh này được gửi đến Quảng Tây và Vân Nam.

Nhiều nhà quan sát trước đây đã phân tích vì sao Trung Quốc chọn thời điểm này.

Có vẻ nó liên quan đến yếu tố thời tiết: sẽ khó khăn nếu đưa quân tác chiến vào mùa mưa, thường bắt đầu từ tháng Tư, và cũng không ổn nếu tấn công quá sớm khi quân Liên Xô có thể vượt dòng sông băng dọc biên giới Xô – Trung.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/02/070216_chinaborderwar.shtm

***

Số thương vong trong cuộc chiến 1979

Tư liệu của Trung Quốc nói rằng từ đầu, Bắc Kinh hạn chế mục tiêu và cách tiến hành cuộc chiến để không vượt quá một cuộc xung đột biên giới với Việt Nam.

Kế hoạch của Trung Quốc gồm ba giai đoạn.

Giai đoạn đầu từ 17 đến 25-2, khi quân Trung Quốc, theo kế hoạch, sẽ phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam và cướp lấy Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn.

Giai đoạn hai là tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở mạn tây bắc, từ 26-2 đến 5-3.

Giai đoạn cuối là bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút về vào ngày 16-3.

Diễn biến cuộc chiến

Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12-2005, cuộc tấn công có vẻ đã làm Việt Nam bị bất ngờ.

Mặc dù có căng thẳng trong nhiều tháng, nhưng dường như các nhà lãnh đạo Việt Nam không tin rằng một “nước anh em” sẽ lại thật sự xâm lấn.

Khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới, thủ tướng Phạm Văn Đồng và tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đang ở Phnom Penh.

Trong lúc gửi điện khẩn nhờ Moscow giúp đỡ, phản ứng ban đầu của Việt Nam là “chống đỡ bằng mọi biện pháp, cốt sao làm chậm bước tiến quân của Trung Quốc.”

Đến ngày 20-2, các cố vấn Liên Xô kết luận quân Việt Nam thiếu sự điều phối và rằng các phòng thủ du kích sẽ không thể ngăn được quân đối phương.

Tuy nhiên, mặc dù có ưu thế lúc đầu, nhưng địa hình hiểm trở và sự chống cự quyết liệt của quân chính quy và dân quân Việt Nam khiến quân Trung Quốc lâm vào tình trạng khó khăn.

Tác giả Xiaoming Zhang phân tích một trong những vấn đề nằm trong cách nghĩ truyền thống của các tướng lĩnh Trung Quốc.

Nhiều lần, quân tiền phương kêu gọi không quân hỗ trợ, nhưng Bộ tổng tham mưu Trung Quốc không chịu mà lại yêu cầu hãy dựa vào pháo binh.

Các tướng lĩnh Trung Quốc thuộc về một truyền thống quen với cuộc chiến pháo binh và sử dụng biển người, và hạ thấp vai trò của không quân. Đây là một trong những lý do khiến số binh sĩ chết nơi trận địa lên rất cao.

Cuộc xâm lấn của Trung Quốc cũng phụ thuộc vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.

Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn.

Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở mạn phía đông và nam.

Đến ngày 23-2, Trung Quốc chiếm được Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ.

Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.

Quân đội Việt Nam phân nhỏ thành nhiều đơn vị, và phản công theo lối du kích.

Bắc Kinh ngày càng trở nên lo ngại về tiến trình cuộc chiến, và hối thúc tư lệnh Quảng Tây mở cuộc tấn công vào Lạng Sơn càng sớm càng tốt.

Trận đánh Lạng Sơn bắt đầu ngày 27-2, và khu vực mạn bắc của thành phố này bị Trung Quốc chiếm được vào ngày 2-3. Đây cũng là ngày mà theo kế hoạch Trung Quốc sẽ dừng hoạt động quân sự.

Vì bộ máy tuyên truyền của Hà Nội không thừa nhận thất bại ở Lạng Sơn, Xu quyết định tiếp tục tấn công, với mục đích chiếm toàn bộ Lạng Sơn rồi hướng về Nam, tạo thành vị trí đe dọa Hà Nội.

Mặc dù Bắc Kinh đồng ý với quyết định của Xu, nhưng họ loan báo rút quân vào hôm 5-3, ngay sau khi quân Trung Quốc chiếm phần phía nam của Lạng Sơn và tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu mà họ đặt ra.

Số thương vong

Cuộc chiến năm 1979 là hoạt động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ chiến tranh Triều Tiên.

Theo số liệu của nước này, họ đã huy động chín đội quân chính quy cùng các đơn vị địa phương quân, tổng cộng tương đương 300.000 quân.

Cho đến nay, Việt Nam công bố không nhiều các tư liệu liên quan cuộc chiến, và các con số về thương vong cũng khác nhau ở nhiều cuốn sách.

Phía Trung Quốc có tiết lộ một phần nào. Ban đầu Bắc Kinh nói 20.000 lính Trung Quốc đã bị chết hoặc bị thương.

Một số nguồn học thuật hiện thời ước tính có thể có đến 25.000 lính trung Quốc bị chết và 37.000 bị thương.

Những nguồn tài liệu gần đây hơn của chính Trung Quốc thì nói 6900 lính nước này đã chết và 15.000 bị thương.

Dù thế nào, số thương vong của Trung Quốc trong một cuộc chiến ngắn ngày vẫn là cao, thể hiện một trong những truyền thống quân sự của nước này: sẵn sàng chịu tổn thất nhân mạng khi nó được xem là cần thiết.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng miễn là họ tin rằng họ chiếm ưu thế trong tình hình chiến lược chung.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/02/060217_borderwar_deathtoll.shtml

***

Trung Quốc rút ra bài học sau 1979

Đúng 27 năm trước đây, ngày 17-2-1979, Trung Quốc đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam sau nhiều tuần căng thẳng.

Sau khi cuộc chiến ngắn ngày kết thúc, tất cả các đơn vị Trung Quốc tham chiến phải viết tường trình về kinh nghiệm chiến trường.

Trong vấn đề tổng kết cuộc chiến, Trung Quốc ở trong tình thế khó xử.

Một mặt, họ tuyên bố mình đã chiến thắng, nhưng đồng thời cũng phải thừa nhận những tổn thất mà quân Trung Quốc đã hứng chịu.

Ban lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy cần phải có sự đánh giá khách quan tình hình. Tuy nhiên, tinh thần ái quốc và thành kiến văn hóa cũng khiến họ không đưa ra được những kết luận hoàn toàn khách quan.

Trong bài viết mới nhất về chủ đề này đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12-2005, tác giả Xiaoming Zhang cho biết quân đội Trung Quốc đã rút ra sáu bài học từ cuộc chiến 1979.

Thứ nhất, họ kết luận mọi chiến lược và quyết định quân sự đúng đắn phụ thuộc việc nắm bắt mọi khía cạnh của tình hình.

Cuộc chiến biên giới 1979 cho thấy Trung Quốc không mấy chú ý đến chiến thuật và học thuyết quân sự của Việt Nam trước khi tấn công. Vì thế, họ đánh giá thấp khả năng của đối phương.

Mặc dù chê Việt Nam thiếu khả năng tấn công và phòng thủ, nhưng văn bản chính thức của Trung Quốc cũng thừa nhận chiến thuật du kích và dân quân Việt Nam đã khiến Trung Quốc bị bất ngờ.

Bài học thứ hai là phải thu thập đầy đủ thông tin về tình báo. Sự đánh giá địa hình địa vật của Trung Quốc thường dựa theo các bản đồ đã quá cũ, trong khi khả năng dò thám trên chiến trường lại cũng hạn chế.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng tính nhầm số lượng các dân quân Việt Nam. Ban đầu, Bắc Kinh nghĩ tỉ lệ quân đội tham chiến giữa hai bên sẽ là 8-1.

Nhưng kết quả, riêng tại Cao Bằng có tới 40.000 – 50.000 dân quân Việt Nam, khiến tỉ lệ giảm chỉ còn 2-1.

Nâng cao khả năng

Bài học thứ ba Trung Quốc rút ra từ cuộc chiến liên quan đến khả năng tác chiến.

Đây là lần đầu tiên quân đội Trung Quốc thực hiện tác chiến với sự kết hợp của xe tăng, pháo binh, cộng với không quân và thủy quân.

Nhưng sự lạc hậu trong học thuyết và chiến thuật khiến quân đội không có sự phối hợp cần thiết.

Thành kiến đối với khả năng của không quân khiến binh chủng này không có đóng góp gì vào cuộc chiến ngắn ngày. Trên mặt đất, quân đội cũng chứng tỏ khả năng hợp tác kém giữa bộ binh, xe tăng và pháo binh.

Kinh nghiệm năm 1979 dạy cho Trung Quốc những bài học về kỹ năng điều phối và hợp tác giữa các binh chủng.

Bài học thứ tư là vấn đề về chỉ huy và kiểm soát.

Quan hệ cá nhân giữa các sĩ quan và quân đoàn vẫn đóng vai trò lớn hơn các quan hệ dựa trên những định chế.

Vì thế sau này lãnh đạo Quân khu Quảng Châu thừa nhận họ không thoải mái khi chỉ huy số quân được chuyển từ Vũ Hán và Thành Đô trong chiến dịch.

Bài học thứ năm là việc chứng tỏ Trung Quốc phải cải thiện hệ thống cung cấp hậu cần để hỗ trợ cho một chiến dịch xa nhà.

Vì thiếu kho bãi và thiết bị vận chuyển, hai Quân khu Quảng Châu và Côn Minh phải tự lập ra một hệ thống hậu cần mà không bao giờ hoạt động thật hiệu quả.

Khi quân đội tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, các sĩ quan hậu cần cũng thấy rằng phải nhờ thêm viện quân để bảo vệ tuyến đường liên lạc.

Bài học cuối cùng liên quan tầm quan trọng của việc tuyên truyền và vận động nhân dân hỗ trợ cuộc chiến.

Kinh nghiệm năm 1979 cho thấy một số lượng khổng lồ lính chính quy Trung Quốc gần như không thể tác chiến ở nước ngoài nếu không có sự ủng hộ của thường dân trong nước.

Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã cổ vũ tinh thần yêu nước và lòng tự hào trong nhân dân. Kết quả, chỉ riêng ở Quảng Tây, hơn 215.000 thường dân được huy động để khuân vác, bảo vệ hàng hóa chở ra trận địa.

Dĩ nhiên, ngày hôm nay không ai nghĩ rằng quân đội Trung Quốc sẽ lặp lại những gì đã làm trong cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam.

Tuy vậy, một số điểm từ cuộc chiến này vẫn có thể có ích để nhìn nhận và đánh giá những chiến lược của quân đội Trung Quốc.

Một kinh nghiệm rút ra là các lãnh đạo Trung Quốc tính toán rất kỹ về việc khi nào cần dùng sức mạnh quân sự, nhưng họ không ngần ngại mở cuộc chiến nếu họ nghĩ rằng quyền lợi quốc gia bị đụng chạm.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/02/060220_1979_lessons.shtm

 ***

Tiết lộ mới về cuộc chiến 1979

Đúng 27 năm trước đây, ngày 17-2-1979, Trung Quốc đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam sau nhiều tuần căng thẳng.

Trong nhiều năm, nguồn tư liệu của phía Trung Quốc về cuộc chiến vẫn thuộc vào hàng danh sách mật, và thông tin chính thức chỉ có lẻ tẻ.

Tuy vậy, gần đây nhiều tư liệu lưu hành nội bộ về cuộc chiến năm 1979 đã được công bố, cộng thêm một số hồi ký của các sĩ quan cao cấp.

Một trong những câu hỏi chưa có lời giải đáp chi tiết là khi nào và làm thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định có hành động quân sự chống Việt Nam.

Những tư liệu mới

Trong hồi ký của Zhou Deli, tham mưu trưởng của Quân khu Quảng Châu, nhớ lại rằng vào tháng Chín 1978, một cuộc họp về “cách giải quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt Nam chiếm đóng” đã diễn ra tại văn phòng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Trung Quốc.

Sự tập trung ban đầu là nhắm vào cuộc xung đột biên giới, và đề xuất đầu tiên muốn có một cuộc tấn công nhỏ vào một trung đoàn Việt Nam ở Trùng Khánh, ráp gianh Quảng Tây.

Nhưng theo hồi kí của Zhou Deli, sau khi nhận được tin tình báo cho biết Việt Nam sẽ tấn công Campuchia, đa số người dự họp cho rằng một cuộc tấn công cần có tác động lớn đến Hà Nội và tình hình Đông Nam Á.

Họ đề nghị tấn công vào một đơn vị quân chính quy Việt Nam ở một khu vực địa lý rộng hơn.

Mặc dù cuộc họp kết thúc mà không đưa ra quyết định nào, nhưng nó tạo tiền đề cho kế hoạch chiến tranh sau đó.

Tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan, Malaysia và Singapore. Trong chuyến đi, ông Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia.

Ngày 7-12, Ủy ban quân ủy trung ương có cuộc họp và quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở vùng biên giới phía nam của Trung Quốc.

Ngày hôm sau, họ ra lệnh cho các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch và chuẩn bị quân đầy đủ trước ngày 10-1-1979.

Chỉ thị nói rằng cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi 50 cây số từ biên giới và kéo dài hai tuần.

Trong một nghiên cứu có thể nói là mới nhất về cuộc chiến Việt Trung 1979, vừa ra mắt tháng 12 năm ngoái, tác giả Xiaoming Zhang bình luận rằng thời điểm ra lệnh này chứng tỏ Trung Quốc phản ứng trước cuộc tấn công sắp xảy ra của Việt Nam vào Campuchia. Nhưng việc mở chiến dịch quân sự cả trước khi quân Việt Nam vượt qua sông Mêkông cũng cho thấy phản ứng của Bắc Kinh xuất phát từ nhiều năm bực bội vì hành vi của Việt Nam mà họ cho rằng đã “vô ơn” trước sự giúp đỡ trước đây.

Quyết định cụ thể

Tư liệu mới cho biết trong một cuộc họp vào ngày cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị một cuộc chiến chống Việt Nam.

Tại cuộc họp này, ông Đặng bổ nhiệm Xu Shiyou lãnh đạo quân từ Quảng Tây, Yang Dezhi lãnh đạo quân từ Vân Nam. Quyết định này đã bỏ qua Wang Bicheng, lãnh đạo Quân khu Côn Minh.

Không có một sự lãnh đạo tập trung, hai quân khu này sẽ tác chiến độc lập, gần như không có sự hợp tác.

Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc xâm lấn phải nhanh, và toàn bộ quân phải rút về sau khi hoàn tất mục tiêu chiến thuật.

Ngay sau cuộc họp, Đặng Tiểu Bình gửi hai sĩ quan cao cấp đến Vân Nam và Quảng Tây kiểm tra tình hình.

Lo lắng trước sự trễ nải của quân lính, người kiểm tra ra đề nghị hoãn cuộc tấn công thêm một tháng.

Người kiểm tra này, Zhang Zhen, viết trong hồi kí năm 2003 rằng cấp trên đồng ý hoãn cuộc tấn công đến giữa tháng Hai 1979.

Ngày 23-1, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc họp và quyết định quân đội phải sẵn sàng hành động trước ngày 15-2.

Hai ngày sau khi ông Đặng trở về sau chuyến thăm Mỹ và Nhật, hôm 11-2-1979, ông ra quyết định sẽ tấn công Việt Nam vào ngày 17-2.

Lệnh này được gửi đến Quảng Tây và Vân Nam.

Nhiều nhà quan sát trước đây đã phân tích vì sao Trung Quốc chọn thời điểm này.

Có vẻ nó liên quan đến yếu tố thời tiết: sẽ khó khăn nếu đưa quân tác chiến vào mùa mưa, thường bắt đầu từ tháng Tư, và cũng không ổn nếu tấn công quá sớm khi quân Liên Xô có thể vượt dòng sông băng dọc biên giới Xô – Trung.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/02/060217_borderwar_1979.shtml

***

Cuộc chiến 1979 và Hoàng Sa

Cuộc chiến Việt-Trung lại một lần nữa trở nên chủ đề thảo luận sôi nổi trên các diễn đàn, cho dù truyền thông trong nước không đưa tin.

Ngày 7/2/1979, tại Tokyo, khi ngầm thông báo với báo chí một chiến dịch “trừng phạt” Việt Nam, Đặng Tiểu Bình giải thích: “Hiệp ước mà Việt Nam và Liên Xô ký kết có tính chất đồng minh quân sự. Việt Nam đã mở cuộc xâm nhập vũ trang vào Campuchia và đang khiêu khích ở biên giới Trung Quốc”.

Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của cuộc chiến tranh mà Đặng Tiểu Bình thực hiện 10 ngày sau không đơn giản chỉ là những gì được nói ra trong lời tuyên bố ấy.

Hiệp ước mà ông Đặng đề cập là Hiệp ước hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên Xô, ký ngày 3/11/1978.

Hiệp ước này được ký kết sau khi mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã rất trầm trọng: Trung Quốc yêu cầu Việt Nam đóng cửa ba tổng lãnh sự quán (6/6/1978) và cắt toàn bộ viện trợ (7/1978).

Yếu tố Liên Xô và Campuchia

Ngày 29/1/1979, khi hội đàm ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình nhắc tới Campuchia, Afghanistan với Tổng thống Jimmy Carter và cảnh báo “nguy cơ phản ứng dây chuyền”. Carter “đồng ý với Đặng cách nhìn nhận” ấy.

Tuyên bố chung, ra hai ngày sau đó, nhấn mạnh: “Trung-Mỹ chống lại bất kỳ quốc gia hoặc tập đoàn quốc gia nào mưu kế bá quyền”.

Đặng đã thành công khi sử dụng liên minh Việt-Xô để gieo rắc hoài nghi, khiến Mỹ làm ngơ cho Trung Quốc đánh Việt Nam, dù bên trong Đặng không hề đánh giá cao “liên minh” ấy.

Trong hội nghị do Quân ủy Trung ương Trung Quốc triệu tập, bàn “chủ trương” đánh Việt Nam, không ít tướng lĩnh đã cảnh báo nguy cơ bị Liên Xô tấn công.

Khi ấy, trên biên giới Trung- Xô, Liên Xô bố trí tới 50 sư đoàn chủ lực.

Đặng Tiểu Bình nhận định: “Liên Xô không thể không xét tới nhiều nhân tố quốc tế nên khả năng (vì Việt Nam mà) can thiệp vào Trung Quốc là rất ít”.

Trên thực tế, một tuần sau khi Trung Quốc đánh Việt Nam, không thấy Liên Xô “ra tay”, Trung Quốc đã đánh tiếp sang thị xã Lạng Sơn, và chỉ rút khi trên hướng này Quân Đoàn II xuất hiện.

Tại thời điểm Đặng tuyên bố với báo chí (7/2/1979), quân đội Việt Nam có mặt ở Phnom Penh vừa tròn một tháng, nên “yếu tố Campuchia” có vẻ như rất dễ thuyết phục.

Nhưng, theo cuốn sách “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” của NXB Đại học Tứ Xuyên, công bố năm 1993, ngay trong Hội Nghị Quân ủy Trung ương, từ 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đã quyết định đánh Việt Nam.

Trong ngày 9/12/1978, Quyết định này đã được “tuyệt mật” chuyển tới tay tướng Hứa Thế Hữu (Tướng Hữu cùng với Dương Đắc Chí là hai tướng chỉ huy cuộc chiến tranh 17/2).

Trong khi mãi tới ngày 25/12/1978, quân đội Việt Nam mới bắt đầu mở chiến dịch đánh sang Phnom Penh.

Khi Khmer Đỏ chưa nắm được chính quyền đang “ăn nhờ, ở đậu” gần Trung ương Cục (Việt Nam), Pol Pot, Yeng Sary đã “đi lại” với Bắc Kinh.

Năm 1970, Lon Non lật đổ Sihanouk, Pol Pot đã rất cay cú khi Sihanouk được đưa về Hà Nội. Pol Pot nhận ra, họ không phải là lực lượng duy nhất mà Việt Nam ủng hộ ở đất nước nhỏ bé này.

Cho dù sau đó “lá bài” Sihanouk cũng được “nuôi” ở Bắc Kinh như một ông hoàng, người Trung Quốc đã khéo léo nhen nhúm hiềm khích Việt Nam cho Pol Pot. Chính vì thế mà ngay trong năm 1975, Khmer Đỏ đã phản bội Việt Nam, bắn giết ở Phú Quốc, ở Thổ Chu và từ năm 1977 đánh sang An Giang, Tây Ninh, có khi vào sâu hơn 10 km.

Tuy nhiên, cho dù có bị “mất mặt” khi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn bị Việt Nam đánh đổ ở Phnom Penh. Liệu Trung Quốc có phải là một “đàn anh” trung thành với lân bang đến mức hy sinh mình như vậy?

Vấn đề ‘nạn kiều’

Người Hoa và vấn đề “nạn kiều” cũng đóng một vai trò nhất định. Thật khó lý giải vì sao cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp”, đụng tới hàng trăm nghìn người Hoa, lại được Việt Nam tiến hành năm 1978, khi mà mối quan hệ với Trung Quốc đang hết sức căng, nếu như không đề cập đến câu chuyện sau đây, câu chuyện mà sách vở chưa bao giờ nói đến.

Bí thư Thành ủy TP HCM vào thời điểm 1975, ông Võ Văn Kiệt, kể: “Sau ngày 30/4, ở khu vực Chợ Lớn có một chi bộ có vũ trang thuộc bộ phận hải ngoại của đảng Cộng Sản Trung Quốc”.

“Chi bộ này xuất hiện bí mật từ trước 30/4 và khi đó họ đòi được công khai hoạt động.”

Để một lực lượng Trung Quốc có vũ trang ở Chợ Lớn thì cũng không khác chi “đặt mồi lửa dưới đống củi”, Việt Nam buộc phải “giải giáp” họ. Bắc Kinh rất khó chịu về vụ “giải giáp” này.

Nhưng, cho dù có bao nhiêu người Hoa đã phải ra đi trong năm 1978 thì “nạn kiều” vẫn là một “lá bài” mà Trung Quốc cũng chủ động “chơi” chứ không hẳn là nguyên nhân khiến cho Đặng Tiểu Bình đưa quân sang Việt Nam xâm lược.

Tác giả của “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” còn chỉ ra một vấn đề rất có thể cũng là nguyên nhân: Năm 1978, Đặng Tiểu Bình vừa khôi phục lại quyền lãnh đạo quân đội.

“Ông có ý thức nhạy bén… thông qua cuộc chiến tranh, vừa thăm dò được sự trung thành (của quân đội), vừa làm cho các nhà lãnh đạo (Trung Quốc) khác nhận rõ những mặt phải cải cách quân đội”.

Đại tá Hà Tám, chỉ huy trung đoàn 12 anh hùng đánh Trung Quốc tháng 2/1979, cho biết: “Mặc dù pháo theo cùng của Trung Quốc bắn khá chính xác, nhưng, bộ binh thì chủ yếu dùng ‘biển người’; chỉ huy của Trung Quốc lúc ấy ra trận mà vẫn có người che ô, quân thì chờ kèn kêu mới xông trận”.

Sau ngày 17/2, Trung Quốc đã gấp rút cải cách quân đội, và họ đã “thử nghiệm” lại trên Biên giới Việt Nam vào ngày 28/4/1984 bằng một chiến dịch với phương thức chiến tranh hoàn toàn mới.

Tính toán của Trung Quốc

Đặng Tiểu Bình nói: “Người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”.

Cuộc chiến tranh được huy động khi mà Trung Quốc đang vô cùng lạc hậu sau các cuộc cách mạng “da thịt tàn nhau” không chỉ nhắm đến một mục tiêu.

Bằng cách kể lể kiểu chương hồi, cuốn sách mà Trung Quốc cho công bố – “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” – đã để lộ một ý đồ thâm sâu của Đặng, đó là vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa.

Ngay sau khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ thái độ khá kiên định về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, quần đảo mà từ lâu Trung Quốc đã rắp tâm thôn tính.

Tháng 6/1975, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa. Ngày 24/9/1975, khi gặp Đặng Tiểu Bình ở Bắc Kinh, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã “yêu cầu phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình đàm phán về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa”.

Tháng 4/1977, trên đường đi Liên Xô ghé qua Bắc Kinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã gửi đến Trung Quốc thông điệp của Việt Nam về hai quần đảo ấy. Tuy nhiên, trước sau Trung Quốc đều một mực “yêu cầu Việt Nam trở lại lập trường trước năm 1974”.

“Lập trường trước năm 1974”, theo cuốn sách “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” là “Tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958”. Cuốn sách nói là Đặng Tiểu Bình đã rất “khó chịu” với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, Đặng nói: “Vấn đề này không cần thiết phải đàm phán… (đó) là lãnh thổ Trung Quốc”.

Có lẽ, năm 1979, Đặng Tiểu Bình nghĩ là có thể đè bẹp ý chí của người Việt Nam trong vấn đề đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa nên đã phát động chiến tranh. Và, các yếu tố như Liên Xô, Campuchia được Đặng vận dụng tối đa để cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.

Điều cay đắng là, lẽ ra Đặng đã không thể cô lập Việt Nam để gây đổ máu của dân ta như thế nếu như sau 1975, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong khối ASEAN ngay và đặc biệt, bình thường ngoại giao với Mỹ.

Năm 1977, khi Mỹ chìa tay ra cho Việt Nam, theo Tổng thống Jimmy Carter, “vấn đề bồi thường chiến tranh đã gây khó khăn”.

Rồi, trong khi Việt Nam đang loay hoay thì Đặng Tiểu Bình đã khai thác yếu tố này ngay, để thiết lập được quan hệ ngoại giao với Mỹ và đặt Việt Nam vào tình huống bị bao vây, cấm vận.

Tất nhiên, “ý thức hệ” đóng một vài trò quan trọng trong quyết định “nhất biên đảo” với Liên Xô; năm ấy, báo Nhân Dân vẫn chỉ trích Đặng về chủ thuyết “mèo trắng, mèo đen” và ngày nay, chúng ta vẫn cần phải quan tâm tới bài học ấy.

Tôi công bố bài viết này không chỉ vì sắp đến ngày 17/2 mà còn vì, muốn lưu ý, “người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”, không nên đặt cuộc chiến tranh 17/2 ra ngoài âm mưu Biển Đông.

Bản Giốc, Tục Lãm… giờ đã xong; nhưng, Hoàng Sa, Trường Sa thì vẫn đó.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2009/02/090213_huyduc_1979.shtml

Share