Ngày 06 tháng 06 năm 2008 – Liên Hợp Quốc tại Việt Nam nhất trí cao với các nội dung được lựa chọn cho Hội nghị giữa kỳ của Nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm nay bởi lẽ chúng phản ánh một số thách thức quan trọng mà Việt Nam hiện đang phải đối mặt.
Tình hình kinh tế
Chúng ta họp mặt vào vào thời điểm giữa một năm với những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang gặp nhiều khó khăn. Giá dầu mỏ và lương thực tăng cao ở mức kỷ lục; cuộc khủng hoảng về tín dụng liên quan tới thế chấp dưới chuẩn ở Hoa Kỳ để lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt tài chính trên phạm vi toàn cầu; và những sự điều chỉnh nghiệt ngã về tiền tệ. Tất cả những sự kiện đó đã hạn chế triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm nay và có thể cả năm sau. Trong lúc Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức với lạm phát tăng cao và thâm hụt thương mại cũng ngày càng tăng, Việt Nam cũng có các điều kiện cần thiết để có thể kiểm soát ảnh hưởng của tình trạng suy thoái toàn cầu này đối với tình hình trong nước. Việt Nam không bị nợ nần nhiều; xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh; và Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài trong rất nhiều lĩnh vực.
|
Để có thể có được những lợi ích tốt nhất của toàn cầu hóa không chỉ đơn thuần là tranh thủ tối đa lợi ích của các dòng vốn và thương mại mà còn là giảm thiểu các rủi ro xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính trên thị trường quốc tế. Giờ đây, Việt Nam chắc chắn có mức độ hội nhập sâu hơn vào thị trường thế giới so với các năm 1998 và 2001 là những năm gần đây nhất chứng kiến sự chững lại của quá trình tăng trưởng kinh tế thế giới. Chính phủ hiện đang tìm cách kiểm soát tác động của sự tăng vọt của giá cả thị trường tới nền kinh tế nội địa. Nếu có thể rút ra một bài học từ tình trạng lạm phát giá cả năm nay thì đó là phải thận trọng khi hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách tài chính và tiền tệ trong nước cần phải theo phương châm “gió chiều nào che chiều ấy” trong giai đoạn mở rộng, có như vậy mới đặt Chính phủ ở vị trí thuận lợi để kích thích nền kinh tế vào những thời điểm thử thách gay gắt hơn.
Rõ ràng, chính sách kinh tế vĩ mô năm 2007 mang tính thuận chiều với tình hình phát triển của nền kinh tế, có nghĩa là các chính sách ngân sách và tiền tệ quá lỏng lẻo vào thời điểm các dòng vốn đổ vào Việt Nam làm cho tốc độ đầu tư và tiêu dùng gia tăng và nhu cầu tổng thể cũng tăng theo. Tình hình đó dẫn đến kết quả tất yếu là lạm phát giá cả mà chúng ta đang phải đối mặt trong năm nay. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái đúng vào lúc giá năng lượng và lương thực trên thế giới tăng cao cũng đổ thêm dầu vào ngọn lửa lạm phát.
Chúng tôi nhất trí cao với quyết định của Chính phủ là đặt ưu tiên giảm lạm phát giá cả lên trên tăng trưởng kinh tế trong năm nay. Kinh nghiệm cho thấy một khi quyết định chi tiêu của các hộ gia đình và doanh nghiệp đã tính đến yếu tố lạm phát thì rất khó kiểm soát được giá cả. Chúng ta cũng biết rằng tỷ lệ lạm phát cao là điều không tốt đối với tăng trưởng về lâu dài. Việc thắt chặt chính sách tài chính và tiền tệ trong năm nay là việc làm phù hợp cho dù điều này có nghĩa là phải hy sinh một số kết quả tăng trưởng để đổi lấy sự ổn định trong năm nay.
Việc hỗ trợ nhiều hơn nữa cho người nghèo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn lạm phát cao hiện nay. Giá lương thực gia tăng là gánh nặng vô cùng to lớn đối với các hộ gia đình nghèo. Là nước xuất khẩu lương thực tầm cỡ trên thế giới, Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn hầu hết các nước trong việc đối phó với tình trạng giá cả tăng cao trên phạm vi toàn cầu hiện nay. Tuy nhiên, thay vì hạn chế xuất khẩu gạo, cần cân nhắc đến các biện pháp khác bao gồm cả việc đánh thuế xuất khẩu gạo. Thuế xuất khẩu gạo có thể giúp kiểm soát được chênh lệch về giá cả, đồng thời có lợi thế là nguồn thu bổ sung cho ngân sách của Chính phủ.
Tuy nhiên, giúp đỡ người nghèo không có nghĩa là chỉ bằng cách duy nhất là giảm giá lương thực. Việt Nam đưa ra một loạt chính sách trợ giúp xã hội dành cho các hộ gia đình nghèo và rõ ràng là những chính sách này đã giúp cho nhiều người dân bị thiệt thòi ở Việt Nam đổi đời. Song, không phải tất cả người nghèo đều được hưởng lợi từ các chính sách này, và việc thu phí đối với các dịch vụ cơ bản bòn rút từ túi của người nghèo số tiền tương đương với lượng kinh phí mà Chính phủ cung cấp cho họ dưới dạng các khoản trợ cấp. Áp lực về tài chính do giá lương thực tăng cao gây ra lại góp phần làm tồi tệ thêm kinh tế các hộ gia đình phải chi trả cho các dịch vụ thiết yếu về giáo dục và chăm sóc sức khỏe vẫn tiếp tục tăng phí. Vào thời điểm khó khăn này, có một cách giúp người nghèo rất hữu hiệu, đó là giảm chi phí cho các hộ gia đình này để họ có thể tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục cho con em mình.
Ngoài ra, trong lúc Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được những kết quả đầy ấn tượng trong quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), giờ đây xuất hiện những thách thức thực sự trong việc đảm bảo cho những ai đã thoát khỏi nghèo đói sẽ không bị tái nghèo và các MDG sẽ đạt được không chỉ ở cấp trung ương mà trên phạm vi toàn quốc.
HIV/AIDS
Cần tiếp tục ưu tiên quan tâm tới vấn đề HIV/AIDS. Liên Hợp Quốc tại Việt Nam hoan nghênh việc xem xét, sửa đổi Luật Phòng chống ma túy và hài hòa bộ luật này với Luật Phòng chống HIV/AIDS. Mặc dù các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cảm thấy việc hài hòa hai bộ luật chưa đạt được kết quả như mong muốn, song các cơ quan đối tác Việt Nam đã nhận thức được các mối liên quan giữa sử dụng ma túy và HIV và đã thể hiện sự tham gia chiến lược với các bên liên quan chính trong quá trình sửa đổi luật. Cũng đáng ghi nhận sự phối hợp của Nhóm công tác chung của LHQ về HIV với các đối tác của Chính phủ và cộng đồng quốc tế trong việc xác định các vấn đề quan trọng cần đưa vào bộ luật sửa đổi. Chúng tôi mong muốn được tiếp tục hợp tác với Chính phủ xây dựng Nghị định có liên quan nhằm đảm bảo việc thực hiện Luật Phòng chống ma túy sẽ có tác dụng tăng cường phòng ngừa HIV và không cản trở việc điều trị có hiệu quả theo tinh thần của Luật và Chiến lược Quốc gia về Phòng chống HIV/AIDS.
Kết quả của các hoạt động giảm tác hại vừa qua cho thấy Việt Nam tiếp tục cam kết mở rộng quy mô của các sáng kiến về phòng ngừa HIV. Việc bắt đầu thực hiện các chương trình điều trị cai nghiện ma túy bằng methadone tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh là những ví dụ về cam kết này và cần được xem là những ví dụ dựa trên bằng chứng (evidence-based examples) để nhân rộng mô hình thí điểm ở các địa phương khác.
Tăng cường sự phối hợp liên ngành là phần có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đối phó một cách hiệu quả với HIV. Việc hoàn chỉnh Kế hoạch Hành động phối hợp (CAP) vừa qua là một bước tiến cụ thể, song chúng tôi hy vọng xung lực đó sẽ được tăng cường để mang lại những kết quả trông thấy vào cuối năm 2008.
Chống tham nhũng
Như được đề cập tại Hội nghị thường niên của Nhóm tư vấn các nhà tài trợ vào tháng 12 năm 2007, không thể loại bỏ tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội ở Việt Nam nếu không có các cuộc cải cách về quản trị quốc gia rộng hơn như cải cách hành chính công, cải cách luật pháp, trao quyền cho các cơ quan dân cử và mở rộng vai trò của các chủ thể trong xã hội, kể cả các cơ quan báo chí và xã hội dân sự.
Trên tinh thần đó, việc Thanh tra Chính phủ vừa qua đã thảo luận sâu sát hơn về các mối quan hệ giữa cải cách hành chính và đấu tranh chống tham nhũng là những bước tiến rất tích cực. Nói như vậy cũng có nghĩa là cần lồng ghép một cách đầy đủ nội dung phòng chống tham nhũng vào các chính sách của Chính phủ. Điều này đòi hỏi phải quan tâm hơn nữa tới sự thiếu hụt về thể chế và tầm quan trọng của việc giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng như tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, tiếp cận với thông tin và sự tham gia.
Ngoài ra, cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn đòi hỏi phải có các dữ liệu chính xác và mang tính hệ thống cũng như phải thu thập và xử lý thông tin tốt hơn để hỗ trợ cho quá trình hoạch định chính sách và đẩy mạnh phòng chống tham nhũng dựa trên chứng cứ. Cần xây dựng và triển khai hệ thống quốc gia phục vụ cho việc theo dõi có hiệu quả và với sự tham gia của người dân trong các hoạt động phòng chống tham nhũng.
Chúng tôi được thông báo trong cuộc đối thoại gần đây nhất về chống tham nhũng là Việt Nam dự kiến sẽ phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Chống Tham nhũng vào Quý Ba năm nay. Chúng tôi hoan nghênh quyết định này vì sau khi ký Công ước vào năm 2003, đây là một quyết định quan trọng để Việt Nam cùng tham gia với 110 quốc gia khác trên thế giới đã phê chuẩn Công ước này. Chúng tôi tin tưởng rằng Công ước sẽ là một công cụ hiệu quả hỗ trợ các nỗ lực của quốc gia trong cuộc chiến chống tham nhũng.
Biến đổi khí hậu
Liên Hợp Quốc tại Việt Nam hoan nghênh Chính phủ đã có những nỗ lực rất tích cực nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu kể từ Hội nghị CG chính thức vào tháng 12 năm ngoái.
Trong khi dự thảo Chương trình mục tiêu Quốc gia (CTQG) về Biến đổi khí hậu hiện đang được hoàn thiện, Việt Nam cũng cần xây dựng một chiến lược dài hạn về biến đổi khí hậu dựa trên CTQG, trong đó đề ra các mục tiêu lâu dài nhằm giảm nguy cơ bị tổn thương và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với hàm lượng các-bon thấp.
Về mục tiêu giảm nguy cơ bị tổn thương, cần chú trọng đặc biệt tới những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, chứ không chỉ các ngành và địa phương. Biến đổi khí hậu có tác động khác nhau tới các nhóm đối tượng khác nhau, trong đó có các cộng đồng dân tộc thiểu số nghèo (đặc biệt là phụ nữ và trẻ em) và dân nghèo thành thị, kể cả dân di cư và những người có nguy cơ bị tái nghèo. Trong bối cảnh như vậy, dự thảo CTQG vẫn cần bổ sung kết quả phân tích chặt chẽ hơn nguy cơ bị tổn thương về các khía cạnh kinh tế-xã hội và dành ưu tiên cho các đề xuất “không ân hận” (“no-regret” proposals) nhằm giảm bớt các nguy cơ đó.
Về mục tiêu giảm nhẹ biến đổi khí hậu, giai đoạn tiếp theo của CTQG nêu trên (hay CTQG thứ hai sau năm 2015) cần đề ra các chỉ tiêu cụ thể về giảm nguy cơ bị tổn thương và phát thải khí nhà kính, mặc dù trường hợp thứ hai sẽ không mang lại kết quả giảm phát thải khí nhà kính trước năm 2030. CTQG và chiến lược dài hạn về biến đổi khí hậu cũng cần đưa ra các biện pháp giảm hàm lượng các-bon trong các công trình đầu tư và hoạt động của nhà nước và tư nhân. Điều này cần dựa trên nguyên tắc “các bên cùng có lợi” nhằm đảm bảo thu được những lợi ích về môi trường cũng như xóa đói giảm nghèo, đồng thời duy trì hay tăng cường năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp.
Các khoản đầu tư nhằm nội hóa các yếu tố ngoại lai mới về môi trường cần trông đợi vào các quỹ đặc biệt và các cơ chế không sử dụng ngân sách nhà nước nhưng đòi hỏi phải tăng cường năng lực thể chế, kể cả quy chế quản lý và cung cấp thông tin (ví dụ như Cơ chế Phát triển sạch, quỹ đầu tư cho mục đích thích ứng đặc biệt với biến đổi khí hậu và quỹ bảo lãnh cho vay liên quan tới việc mua bán các-bon). Cần sử dụng các khoản ODA không hoàn lại để hỗ trợ tăng cường những năng lực thể chế đó.
Ở cấp quốc gia, Việt Nam cần xây dựng bộ máy thể chế mạnh mẽ ở tất cả các cấp để đảm bảo thực thi có hiệu quả. Chúng tôi hoan nghênh việc Chính phủ tăng cường vai trò của các Bộ tổng hợp như Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Một điều cũng quan trọng nữa là các Bộ liên quan khác (như Bộ NN&PTNT, Bộ YT, Bộ LĐTBXH, Bộ XD và Bộ CT) tham gia đầy đủ hay một phần trong các hoạt động của quốc gia nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu dưới sự chủ trì của Bộ TN&MT.
Ở cấp quốc tế, chương trình của Việt Nam cần: đề cập tới và phản ánh đầy đủ các mục tiêu trong Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyôtô mà Việt Nam đã ký kết; sử dụng thông tin đã được quốc tế nhất trí như các báo cáo của Ủy ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu; cũng như nêu các hoạt động hợp tác cụ thể trong khu vực. Do Việt Nam có vai trò ngày càng tích cực trên trường quốc tế và là một trong những nước dễ bị tổn thương nhất trước tình trạng nóng lên của trái đất và những hậu quả của nó, chúng tôi khuyến khích Chính phủ phát huy tối đa ảnh hưởng của mình trong cuộc tranh luận và đàm phán quốc tế hiện nay về những vấn đề mấu chốt như xây dựng các cơ chế tài chính quốc tế cho mục đích thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải từ hiện tượng chặt phá rừng và rừng thoái hóa, đề xuất các nội dung điều chỉnh trong Cơ chế Phát triển sạch cũng như đề ra các chỉ tiêu quốc tế về giảm nguy cơ bị tổn thương và phát thải khí nhà kính.
Dân tộc thiểu số và hiệu quả viện trợ
Tuy đã đạt tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây, song các vùng dân tộc thiểu số nói chung và các vùng núi phía Bắc nói riêng vẫn bị tụt hậu so với trung bình quốc gia về tất cả các mục tiêu phát triển (của Liên Hợp Quốc – MDG và của Việt Nam – VDG). Ví dụ, tỷ lệ trường học có nhà xí hợp vệ sinh ở vùng Tây Bắc là thấp nhất (3,3%). Tỷ lệ này ở các dân tộc thiểu số là thấp nhất (dưới 4%), thậm chí là 0% đối với các dân tộc Hmông, Gia Rai và Ba Na, so với 34,5% ở cộng đồng người Hoa và 20,6% ở cộng đồng người Kinh. Chỉ có 15,6% hộ nông thôn Việt Nam có nước sạch cho sinh hoạt trong gia đình. Có tới 26% dân cư nông thôn vẫn uống nước lã – và tỷ lệ này là cao nhất trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ngoài ra, số liệu gần đây cho thấy năm ngoái chỉ có 58% phụ nữ ở vùng Tây Bắc sinh con với sự giúp đỡ của nhân viên y tế được đào tạo, trong khi tỷ lệ trung bình của cả nước là 88%. Các phân tích về sự bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ y tế đã chỉ ra rằng dân tộc là một yếu tố góp phần làm tăng thêm sự bất bình đẳng trong cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Trong giáo dục, các nỗ lực nhằm giảm thiểu sự bất bình đẳng giới và tạo quyền năng cho phụ nữ trong các cộng đồng dân tộc thiểu số ở các vùng núi, vùng xa và vùng khó khăn cũng mang lại những kết quả không đồng đều, thể hiện ở tỷ lệ bỏ học cao của các trẻ em gái trong thời kỳ chuyển cấp học từ tiểu học lên trung học cơ sở. Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra năm cản trở chính trong giáo dục cho trẻ em gái tại các cộng đồng này: (1) các cản trở về tài chính và kinh tế; (2) nhu cầu phải lao động kiếm sống; (3) chất lượng dạy và học còn chưa tốt ở các trường; (4) cơ sở hạ tầng không tốt của các trường; và (5) quan niệm của cha mẹ về giá trị của giáo dục đối với trẻ em gái.
Rõ ràng, tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường hành động, sử dụng cách tiếp cận mang tính sáng tạo, nhằm tận dụng triệt để các nguồn lực trong nước và nước ngoài. Có một số điểm cần nhấn mạnh sau đây.
Thứ nhất, khi đề cập đến chất lượng và chi tiêu của đầu tư công, cần quan tâm ưu tiên đến các lĩnh vực ưu tiên. Chúng tôi vui mừng thấy rằng trong khi tập trung cho việc đấu tranh chống lạm phát được coi là ưu tiên hàng đầu, Chính phủ vẫn duy trì mức đầu tư kinh phí như hiện nay cho các chương trình xóa đói giảm nghèo chính như Chương trình mục tiêu Quốc gia về Xóa đói Giảm nghèo và Chương trình 135 (giai đoạn 2).
Thứ hai, cần xác định đối tượng hỗ trợ phù hợp hơn và phối hợp tốt hơn các biện pháp can thiệp. Do có những chênh lệch lớn tồn tại từ bao lâu nay nên cần tập trung nhiều hơn cho các vùng dân tộc thiểu số cũng như chú trọng hơn vào các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em. Vẫn cần tiếp tục nghiên cứu thêm mặc dù kinh nghiệm hài hòa giữa Chính phủ và các nhà tài trợ ODA trong quá trình hỗ trợ cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương và các chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia/địa phương cho thấy những ví dụ về triển vọng của xu thế hài hòa trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ.
Thứ ba, để đảm bảo rằng viện trợ phát triển được sử dụng có hiệu quả, cần phải áp dụng các cách tiếp cận mang tính sáng tạo được thiết kế cho phù hợp với đặc điểm văn hóa, truyền thống và tình hình của các dân tộc thiểu số, ví dụ như cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số; giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ, giáo dục song ngữ; hay các phương pháp khuyến nông có tính đến tri thức, văn hóa và truyền thống bản địa cũng như phù hợp với các tập quán sản xuất và hệ sinh thái địa phương. Một cách tiếp cận đã thực hiện thành công ở nhiều nước là trao quyền và tăng cường năng lực cho đồng bào các dân tộc thiểu số để họ có thể tham gia hiệu quả trong tất cả các công đoạn từ xây dựng, thực hiện, quản lý và theo dõi các chính sách/chương trình liên quan tới cuộc sống của họ.
Cuối cùng, để đảm bảo rằng viện trợ phát triển đạt được đúng các mục tiêu có hiệu quả cũng cần phải tăng cường công tác theo dõi và đánh giá, có nghĩa là phải thu thập những dữ liệu chính thường xuyên hơn cũng như tăng cường sử dụng và phổ biến các dữ liệu được phân tách theo dân tộc thiểu số, giới và độ tuổi. Mới đây, Viện Dinh dưỡng Quốc gia đã đồng ý phối hợp với Liên Hợp Quốc thiết lập một hệ thống giám sát điểm về dinh dưỡng ở cấp quốc gia dựa trên hệ thống hiện có. Hệ thống này sẽ thu thập dữ liệu về tình hình dinh dưỡng ở một số hộ gia đình một cách thường xuyên hơn, qua đó cho phép Chính phủ theo dõi tốt hơn những sự thay đổi về mức độ dinh dưỡng (gây ra bởi hay có liên quan tới những thay đổi chẳng hạn về giá lương thực). Công tác theo dõi và đánh giá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó cho phép Chính phủ không những theo dõi tốt hơn kết quả mà còn đưa ra dấu hiệu “cảnh báo sớm” về các vấn đề dinh dưỡng như suy giảm mức độ dinh dưỡng hay tình trạng nghèo đói trong đồng bào dân tộc thiểu số trở nên trầm trọng hơn do sự gia tăng giá lương thực và các hàng hóa khác có ý nghĩa thiết yếu đối với những người dân tộc thiểu số nghèo nhất (cả nam giới, phụ nữ và trẻ em).
“Sáng kiến Một Liên Hợp Quốc”
Cuối cùng, chúng tôi đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc thực hiện “Sáng kiến Một Liên Hợp Quốc” dưới sự chỉ đạo tích cực của Chính phủ và trong khuôn khổ của Tuyên bố Hà Nội về Hiệu quả viện trợ.
Từ 14 khuôn khổ chương trình khác nhau, chúng tôi đã tiến tới xây dựng một Kế hoạch chung. Kế hoạch này đã được sửa đổi và chúng tôi hy vọng sẽ cùng với Chính phủ và cộng đồng tài trợ chính thức ký kết sau một tuần nữa. Chúng tôi đã đề ra cách thức tài trợ mới cho các hoạt động chương trình của Liên Hợp Quốc thông qua Quỹ hỗ trợ Kế hoạch chung. Chúng tôi cũng hy vọng bộ tài liệu hướng dẫn quản lý thống chương trình, dự án sẽ sớm được ban hành với ý nghĩa như một nét cải cách độc đáo của Việt Nam. Liên Hợp Quốc đã nhất trí với Biên bản ghi nhớ về Một lãnh đạo của hệ thống Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, thiết lập Phòng Truyền thông Liên Hợp Quốc cũng như đề ra Khung theo dõi và đánh giá chung. Liên Hợp Quốc cũng đang xây dựng một cơ cấu mới – các Ban Điều phối Chương trình – nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan Liên Hợp Quốc với nhau. Cuối cùng, chúng tôi đã huy động được khá nhiều nguồn lực để thiết lập Ngôi nhà “Xanh” chung của Liên Hợp Quốc. Đây sẽ là một ngôi nhà mẫu quan trọng, và nó cũng có tác dụng hỗ trợ và tăng cường quá trình quản lý cải cách ở cường độ cao mà Liên Hợp Quốc hiện đang triển khai cùng với việc đánh giá năng lực, thăm dò ý kiến của nhân viên trong toàn hệ thống LHQ và thăm dò ý kiến giấu tên của các đối tác có liên quan.
Việc hoàn chỉnh bản Kế hoạch chung sửa đổi là cột mốc quan trọng trong quá trình cải cách LHQ tại Việt Nam. Song xét về nhiều phương diện, quá trình này mới chỉ bắt đầu. Nhiệm vụ giờ đây của chúng tôi là đạt được các kết quả nêu ra trong Kế hoạch chung trên cơ sở hài hòa ở mức độ cao hơn nhằm thu được kết quả tốt nhất có thể. “Sáng kiến Một Liên Hợp Quốc” sẽ thành công nếu chúng tôi cùng nhau phát huy tối đa tác động của Liên Hợp Quốc về các mặt chính sách, tuyên truyền/vận động và xây dựng tiêu chuẩn/quy tắc đối với một số thách thức quan trọng nhất mà Việt Nam đang phải đối mặt, sẽ được thảo luận tại Hội nghị này.
Nguồn: http://www.un.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=520&Itemid=1